Hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc vất vả, lam lũ, chân chất mà lại vô cùng cao đẹp đã được khắc họa qua ngòi bút thiên tài của Nguyễn Đình Chiểu. Đây là hình ảnh đại diện cho người nông dân Việt Nam yêu nước trong lịch sử văn học nước ta. Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng thành công hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc xuyên suốt toàn bài, trong đó có 15 câu đầu. Dưới đây là những bài mẫu Cảm nhận và phân tích 15 câu đầu Văn tế nghĩa sĩ học sinh giỏi được Toptailieu sưu tầm, mời bạn cùng tìm hiểu nhé!
Cảm nhận 15 câu đầu văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc học sinh giỏi – Bài mẫu 1
Có thể nhận định rằng, tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên một bức tượng đài nghệ thuật về những người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc. Đặc biệt chúng ta cảm nhận được rõ nhất vẻ đẹp của những người nông dân đó trong 15 câu thơ đầu.
Mở đầu bài thơ là tiếng than “Hỡi ơi!”, đó chính là tiếng khóc cất lên giữa đất trời, khóc cho linh hồn của những người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc, sống anh dũng, chết vẻ vang. “Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ”, câu thơ thứ nhất này tuy ngắn gọn nhưng đã khái quát được hoàn cảnh lịch sử đất nước ta lúc bấy giờ: Giặc xâm lược có vũ khí hiện đại, công phá dữ dội, súng nổ rền vang cả mặt đất. Còn ta chỉ có tấm lòng và ý chí quyết tâm giữ nước của nhân dân. Câu thơ thứ hai, nhà thơ đã đánh giá người nghĩa sĩ nông dân qua hai gia đoạn cuộc đời của họ: mười năm có công vỡ ruộng chưa chắc đã nổi danh, nhưng chỉ sau một trận đánh tây, tuy phải hi sinh nhưng tiếng tăm vang như mõ.
Tiếp theo, hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân đã được thể hiện qua hồi ức của nhà thơ. Họ vốn xuất thân là những người nông dân lam lũ, “Cui cút làm ăn, lo toan nghèo khó”, có thể thấy tác giả Đồ Chiểu rất thương mến đối với kiếp người nhỏ nhoi, cùng khổ ấy, dù họ có cui cút, cặm cụi làm ăn nhưng vẫn đói nghèo. Rồi họ là những người thuần nông, chất phác, ngoài những việc đồng áng, họ chẳng biết đến việc gì khác “Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; Chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ” không gian sinh hoạt và làm việc của họ chỉ thu gọn lại trong ngôi làng, quẩn quanh và bé nhỏ. Những công việc “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy”, bao nhiêu công việc luôn chân tay và họ đã quen hàng ngày, còn những chuyện “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ” lại chưa từng biết đến. Nhà thơ đã nhấn mạnh đến bản chất của những người nông dân nghèo khổ, họ không hề biết tới việc quân việc lính hay chiến trận đao binh, họ chỉ cố gắng lo cho khỏi đói khổ, rách rưới.
Thế rồi giặc tới, suốt ba năm chịu khổ, họ đã đứng lên, trở thành những anh hùng nghĩa sĩ cứu nước, “Tiếng phong hạc” thể hiện cho sự hoảng loạn trước tấn công của kẻ thù, vua và quan quân triều đình e sợ, người nông dân chịu cảnh khổ, chỉ biết “phập phồng” trông chờ vào bậc quan quân của mình. Thế nhưng trông chờ trong mỏi mòn, lòng căm thù bọn giặc cướp nước đã rực lửa, hừng hực trong con người họ. Lúc đầu họ chỉ căm ghét chúng như loài dị tộc tanh hôi “mùi tinh chiên vấy vá”, ghét chúng như người nông dân “ghét cỏ” trên ruộng lúa của mình.
Nhưng rồi cứ thế ngày ngày giặc thù hiện ra ngang nhiên như đâm vào mắt “bòng bong che”, người nông dân lúc ấy chỉ còn thấy nhức nhối và gay gắt, căm thù mãnh liệt “muốn tới ăn gan”, “muốn ra cắn cổ”. Tuy nhiên, sự căm thù đẩy lên đến đỉnh điểm khi nhắm tới một điều hết sức cao cả, thiêng liêng, đó là sự tự do và thống nhất của dân tộc, trách nhiệm trước công lí, chính nghĩa. Sự giả dối, mặt nạ nhân dạo “khai hóa”, “truyền đạo” của thực dân Pháp đã bị vạch trần, dã tâm của chúng đã được phơi bày. Từ đó người nông dân đã tự nguyện ra đánh giặc, và họ đã trở thành nghĩa sĩ:
“Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình.
Chẳng ai thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.”
Câu thơ thể hiện khí thế hào sảng và hăm hở, dũng mãnh của người dân binh mộ nghĩa. Một lần nữa, nhà thơ lại nhắc lại tới nguồn gốc của họ, họ là người “dân ấp dân lân”, bước vào chiến đấu nhưng không được tập luyện hay chuẩn bị gì cả, những hiểu biết tối thiểu về kĩ thuật tác chiến cũng không hay biết “Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn”, “Chín chục binh thư không chờ bày bố”. Tuy họ không có kĩ thuật, không có võ nghệ và không được tập dượt nhưng họ lại rất chủ động “không chờ”, “không nài” mà đánh giặc, tự trang bị cho mình một cách thô sơ nhất “manh áo vải”, vũ khí là “ngọn tầm vông”, “rơm con cúi”, “lưỡi dao phay”. Hai câu thơ 14 và 15 đã thể hiện một cách rất sống động và chân thực hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ trong giây phút công đồn:
“Chi nhọc quan quản trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không…
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.”
Câu văn với nhiều động từ, giới từ, đã tạo nên một không khí hết sức căng thẳng, quyết liệt, người nghĩa sĩ lao trong mưa đạn của kẻ thù như cơn cuồng phong bão táp, coi thường súng đạn tối tân, sát thương mạnh của kẻ thù. Họ xông xáo và lập nhiều chiến công vang dội.
Như vậy, qua 15 câu thơ đầu trong bài văn, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên một hình tượng người nghĩa sĩ lam lũ mà cao đẹp, chân chất và vĩ đại. Đại diện cho hình tượng người nông dân trong lịch sử văn học yêu nước của Việt Nam.
>>> Tham khảo: Bố cục Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Cảm nhận 15 câu đầu văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc học sinh giỏi – Bài mẫu 2
Nguyễn Đình Chiểu là nhà văn tài ba khi đã nêu lên hình ảnh người nông dân trong văn học mà trong suốt các thời gian qua chưa được nhắc đến thông qua bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.Trong bài văn tế, hình ảnh người nông dân được khắc hoạ rõ ràng. Hình ảnh người nông dân nghèo khổ chỉ biết làm ăn một cách thầm lặng, quanh năm chỉ biết ruộng trâu, cần cù lao động. Họ là những người nông dân yêu ghét rõ ràng, căm thù quyết không đội trời chung với giặc khi thực dân Pháp xâm lược. Họ đã anh dũng chiến đấu và anh dũng hi sinh, trong lời văn là những lời lẽ bi thương đầy nước mắt nhưng không hề rơi nước mắt. Đó chính là cái hay của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ra đời vào năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, Việt Nam. Sau khi chiếm được thành Gia Định vào đầu năm 1859, quân Pháp bắt đầu một quá trình mở rộng tấn công ra các vùng lân cận như Tân An, Cần Giuộc, Gò Công… Ngày 15 tháng 11 năm Tân Dậu, những nghĩa sĩ mà là nông dân, vì quá căm phẫn kẻ ngoại xâm, đã dũng cảm đứng lên chiến đấu tập kích đồn Pháp ở Cần Giuộc, tiêu diệt được một số quân của đối phương và viên tri huyện người Việt đang làm cộng sự cho Pháp. Khoảng mười lăm nghĩa sĩ bỏ mình. Những tấm gương đó đã gây nên niềm xúc động lớn trong nhân dân. Theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang, Nguyễn Đình Chiểu làm bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” để đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đánh này.
Như chúng ta biết thì “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một “tác phẩm nghệ thuật” hiếm có. “Bi tráng” là tầm vóc và tính chất của tác phẩm nghệ thuật ấy: vừa hoành tráng, hùng tráng, vừa thống thiết, bi ai. Hùng tráng ở nội dung chiến đấu vì nghĩa lớn. Hùng tráng ở phẩm chất anh hùng, ở đức hi sinh quyết tử. Hùng tráng ở chỗ nó dựng lên một thời đại sóng gió dữ dội, quyết liệt của đất nước và dân tộc.
Mở đầu bài văn tế là hai tiếng “Hỡi ôi!” vang lên thống thiết, đó là tiếng khóc của nhà thơ đối với nghĩa sĩ, là tiếng nấc đau thương cho thế nước hiểm nghèo:
“Súng giặc, đất rền; lòng dân trời tỏ” có ý nghĩa là Tổ quốc lâm nguy, súng giặc nổ vang rền trời đất và quê hương .
Trong cảnh nước mất nhà tan, chỉ có nhân dân đứng lên gánh vác sứ mệnh lịch sử, đánh giặc cứu nước cứu nhà. Và người nông dân chỉ biết cui cút làm ăn một cách tội nghiệp đã dũng cảm đứng lên đánh giặc giành lại nền độc lập cho Tổ quốc thân yêu mà sự dũng cảm đó xuất phát từ tấm lòng yêu nước có trong mỗi con người. Tấm lòng yêu nước, căm thù giặc của những người nông dân, của những người áo vải mới tỏ cùng trời đất và sáng ngời chính nghĩa. Hình ảnh chính của bài văn tế chính là những chiến sĩ nghĩa quân Cần Giuộc.
Nguồn gốc của họ là nông dân nghèo sống cuộc đời “côi cút” sau luỹ tre làng. Chất phác và hiền lành, cần cù là chịu khó trong làm ăn, quanh quẩn trong xóm làng, làm bạn với con trâu, đường cày, sá bừa, rất xa lạ với cung ngựa trường nhung:
“Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó”
Cui cút làm ăn: có nghĩa là làm ăn lẻ loi, thầm lặng một cách tội nghiệp. Dù mệt mỏi hay vất vả thì họ vẫn âm thầm, lặng lẽ chịu đựng một mình mà chẳng nói với ai. “Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó” đã hiện lên đầy đủ một vòng đời không lối thoát của người nông dân Việt, người “dân ấp dân lân” Nam Bộ. Bắt đầu bằng cui cút, vật lộn làm ăn, toan lo để cuối cùng kết thúc trong nghèo khó. Họ là những người nông dân mà quanh năm chỉ biết làm với làm, chưa hề biết đến cái gì gọi là cung, cái gì gọi là ngựa.
“Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”.
Họ là lớp người đông đảo, sống gần gũi quanh ta. Quanh năm chân lấm tay bùn với nghề nông, “chưa hề ngó tới” việc binh và vũ khí đánh giặc:
“Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”.
Thế nhưng khi đất nước quê hương bị giặc Pháp xâm lược, những người dân chân lấm tay bùn ấy đã đứng lên tình nguyện làm quân tự nguyện đánh giặc cứu nước cứu nhà, bảo vệ cái nghề làm lụng mà họ coi là bát cơm manh áo của họ là cái nghĩa lớn mà họ “mến” là đeo đuổi:
“Bữa thấy bong bong che trắng lốp, muốn tới an gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”.
Đối với giặc Pháp và lũ tay sai bán nước, họ chỉ có một thái độ: “ăn gan” và “cắn cổ”,chỉ có một chí hướng: “phen này xin ra sức đoạn kình…, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.
Trong bài văn tế Nguyễn Đình Chiểu đã có khắc nên sự đối lập giữa đoàn dũng sĩ của quê hương và giặc Pháp xâm lược. Giặc xâm lược được trang bị tối tân, có “tàu thiếc, tàu đồng”, “bắn đạn nhỏ, đạn to”, có bọn lính đánh thuê “mã tà, ma ní” thiện chiến. Trái lại, trang bị của nghĩa quân lại hết sức thô sơ. Quân trang chỉ là “một manh áo vải”. Vũ khí chỉ có “một ngọn tầm vông”, hoặc “một lưỡi dao phay”, một súng hoả mai khai hoả “bằng rơm con cúi”. Thế mà họ vẫn lập được chiến công: “đốt xong nhà dạy đạo kia” và “chém rớt đầu quan hai nọ”.
Bài văn tế đã tái hiện lại những giờ phút giao tranh ác liệt của các chiến sĩ nghĩa quân với giặc Pháp:
“Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.”
“Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho ma ní, mã tà hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ”.
Không khí chiến trận có tiếng trống thúc quân giục giã, “có bọn hè trước, lũ ó sau” vang dậy đất trời cùng tiếng súng nổ. Các nghĩa sĩ của ta coi cái chết như không, tấn công như vũ bão, tung hoành giữa đồn giặc: “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang chém ngược”, “hè trước, ó sau”. Giọng văn của Nguyễn Đình Chiểu đã tô đậm tinh thần dũng cảm, kiên cường bất khuất của các nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc. Ông cũng thể hiện rõ lòng khâm phục đối với người nghĩa sĩ nông dân. Từ trước đến nay, đây là tác phẩm đầu tiên có đưa hình ảnh của nghĩa sĩ nông dân.
Như vậy, qua 15 câu thơ đầu trong bài văn, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên một hình tượng người nghĩa sĩ lam lũ mà cao đẹp, chân chất và vĩ đại. Đại diện cho hình tượng người nông dân trong lịch sử văn học yêu nước của Việt Nam.
Phân tích 15 câu đầu văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc học sinh giỏi – Bài mẫu 3
Nói đến Nguyễn Đình Chiểu là nói đến Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, khi tác phẩm này đã thành công khắc họa lên hình tượng người nông dân nghĩa sĩ anh hùng Cần Giuộc thời đó. Đồng thời qua đó ông cũng ngợi ca, tiếc thương và kính phục những nghĩa quân đã đứng lên chống thực dân Pháp một cách anh dũng. Những hình ảnh đẹp đẽ đó được tác giả khắc họa rõ nét nhất ở 15 câu đầu của bài thơ.
Tiếng kêu thán “Hỡi ơi” mở đầu bài thơ nghe sao thật da diết. Tiếng khóc than vang lên giữa đất trời như lời tiếc thương cho linh hồn người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc. Cuộc đời người sống anh dũng, chết đi cũng thật vẻ vang.
Tiếp theo, tác giả khái quát hoàn cảnh lịch sử nước ta lúc bây giờ, cũng là hoàn cảnh khiến cho bao vị anh hùng áo vải phải đau đớn ra đi:
“Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ”
Giặc xâm lược khi ấy có vũ khí hiện đại với sức công phá dữ dội, lực lượng quân đông đảo, vũ khí họ nổ rền vang cả mặt đất. Đứng trước quân địch mạnh như vậy, tất cả những gì chúng ta có là tình yêu nước và ý chí quyết tâm bảo vệ tổ quốc của nhân dân.
Trong cảnh nước mất nhà tan, sứ mệnh lịch sử đánh giặc cứu nước cứu nhà được đặt lên vai những người nông dân ấy. Tấm lòng yêu nước, căm thù giặc của những người nông dân, của những người áo vải mới tỏ cùng trời đất và sáng ngời chính nghĩa. Vì vậy, hình ảnh chính của bài Văn tế chính là những chiến sĩ nghĩa quân Cần Giuộc.
Cả cuộc đời những người nông dân ấy như được hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu:
“Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao
Một trận nghĩa đánh Tây, thân tuy mất tiếng vang như mõ.”
Những người nông dân ấy làm ăn lam lũ trải qua hai giai đoạn của đời: An yên công vỡ ruộng, bình yên qua ngày thế nhưng chỉ qua một trận đánh đã mang lại tiếng vang cho nhiều đời sau.
Những kiếp người cùng khổ ấy nhỏ nhoi, căm cụt làm ăn thế nhưng vẫn đói nghèo:
“Cui cút làm ăn, lo toan nghèo khó”
Bắt đầu bằng cui cút, vật lộn làm ăn, toan lo để cuối cùng kết thúc trong nghèo khó. Sự thầm lặng đấy họ phải trải qua âm thầm, một mình chẳng dám nói với ai. Cuộc đời họ là đại diện cho cuộc sống không lối thoát của người nông dân Việt “dân ấp dân lân” Nam Bộ.
Những người nông dân chất phác đâu biết gì ngoài việc đồng áng?
“Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.”
Không gian sinh hoạt và làm việc bao đời này vốn chỉ gói gọn trong làng mạc. Quanh năm chân lấm tay bùn với nghề nông, đâu hề muốn phải ngó ngàng tới việc nhà binh. Nhà thơ đã nhấn mạnh đến bản chất của những người nông dân nghèo khổ, họ không hề biết tới việc quân việc lính hay chiến trận đao binh, họ chỉ cố gắng lo cho khỏi đói khổ, rách rưới.
“Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”.
Thế nhưng khi đứng trước nguy cơ quê hương họ sắp rơi vào tay giặc Pháp, thì những người nông dân ấy lại tự nguyện đứng lên đánh giặc cứu nước. Bằng tất cả tình yêu, họ muốn bảo vệ xóm làng quen thuộc, bát cơm manh áo và những nghĩa tình đã ăn sâu vào máu.
Chưa từng biết đến những chuyện “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ”, công việc họ đã quen bấy lâu chỉ là “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy”. Nhưng bọn giặc gian ác đâu để họ yên? Sau ba năm chịu đựng gian khổ, họ nổi dậy, trở thành những anh hùng nghĩa sĩ cứu nước.
“Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng
Trông tin quan như trời hạn mong mưa”
Họ “Phập phồng” chờ mong quan quân triều đình thế nhưng tất cả nhận lại chỉ là “tiếng phong hạc” kia lại làm các bậc quan nhân hoảng sợ. Trong khi đó, lòng căm thù bọn giặc cướp nước lại hừng hực và rực cháy trong tim những người nông dân chân lấm tay bùn kia.
Ban đầu, nỗi căm ghét ấy như cách họ “ghét cỏ” trên ruộng lúa, ghét loại dị tộc tanh tưởi “ mùi tinh chiên vấy vá”. Nhưng rồi cứ thế ngày ngày giặc thù hiện ra ngang nhiên như đâm vào mắt “bòng bong che”, người nông dân lúc ấy chỉ còn thấy nhức nhối và gay gắt. Nỗi căm thù mãnh liệt ấy đã lớn tới mức khiến họ chỉ “muốn tới ăn gan”, “muốn ra cắn cổ”.
Mặt nạ nhân đạo của thực dân Pháp muốn đến nước ta để “truyền đạo” “khai hóa”, coi nhân dân ta như bọn mọi rợ đã bị vạch trần. Dã tâm bị phơi bày khi chúng nhắm tới một điều hết sức cao cả, thiêng liêng, đó là sự tự do và thống nhất của dân tộc. Tất cả những điều ấy đã đưa lòng căm thù ấy đưa lên đến đỉnh điểm, cũng đã dẫn đường đưa những người dân kia tự nguyện ra đánh giặc và trở thành nghĩa sĩ:
“Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình.
Chẳng ai thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.”
Tất cả sự dũng mãnh và hào sảng của người dân binh mộ nghĩa đều được thể qua câu thơ ấy. Dù nguồn gốc của họ chỉ là “dân ấp dân lân”, khi bước vào chiến đấu cũng đâu được luyện tập hay chuẩn bị gì. Những kĩ thuật tối thiểu về tác chiến cũng đâu hề hay biết “Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn”, “Chín chục binh thư không chờ bày bố”.
Nhưng không vì vậy mà họ lại bị động. Họ không chờ”, “không nài” mà đánh giặc, tự trang bị cho mình một cách thô sơ nhất “manh áo vải”, vũ khí là “ngọn tầm vông”, “rơm con cúi”, “lưỡi dao phay”.
Hai câu thơ 14 và 15 đã thể hiện một cách rất sống động và chân thực hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ trong giây phút công đồn :
“Chi nhọc quan quản trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không…
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.”
Với cách sử dụng từ ngữ chắc chắn, mạnh mẽ, kết hợp giữa nhiều động từ, giới từ đã tạo nên một bầu không khí căng thẳng và quyết liệt. Trong bầu không khí ấy, người nghĩa sĩ lao đi như coi thường súng đạn tối tân của kẻ thù, không sợ cơn mưa đạn như cuồng phong bão táp. Bao nhiêu chiến công vang dội đã được tạo nên từ sự quả cảm ấy.
Hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc vất vả, lam lũ, chân chất mà lại vô cùng cao đẹp đã được khắc họa qua ngòi bút thiên tài của Nguyễn Đình Chiểu. Đây là hình ảnh đại diện cho người nông dân Việt Nam yêu nước trong lịch sử văn học nước ta. Qua đó, chúng ta cũng thấy được tấm lòng yêu thương nhân dân tha thiết của tác giả.
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là niềm tự hào và biết ơn sâu sắc của nhân dân ta đối với người nghĩa sĩ nông dân đã anh dũng chiến đấu chống giặc ngoại xâm bảo vệ nền độc lập vững chắc của quê nhà. Đây là nơi họ đã sinh ra và lớn lên hay đó là Tổ quốc mà đối với họ, đây là điều rất quan trọng trong cuộc đời.
Phân tích 15 câu đầu văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc học sinh giỏi – Bài mẫu 4
Nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu với bài ” Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” đã thể hiện cao độ nhất, sâu sắc nhất tư tưởng yêu nước thương dân của ông. Với lòng cảm thương và khâm phục chân thành, nhà thơ đã xây dựng nên một tượng đài nghệ thuật bất hủ về người anh hùng nghĩa sĩ nông dân trong lịch sử. Trong đó 15 câu đầu trong bài văn tế hình ảnh người nghĩa sĩ hiện lên với vẻ mộc mạc, chân chất những vẫn hiện lên với lòng cảm thù và tình thần chiến đấu dũng cảm.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ra đời vào năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, Việt Nam. Sau khi chiếm được thành Gia Định vào đầu năm 1859, quân Pháp bắt đầu một quá trình mở rộng tấn công ra các vùng lân cận như Tân An, Cần Giuộc, Gò Công… Ngày 15 tháng 11 năm Tân Dậu, những nghĩa sĩ là nông dân, vì quá căm phẫn kẻ ngoại xâm, đã dũng cảm đứng lên chiến đấu tập kích đồn Pháp ở Cần Giuộc, tiêu diệt được một số quân của đối phương và viên tri huyện người Việt đang làm cộng sự cho Pháp. Nhiều nghĩa sĩ bỏ mình. Những tấm gương đó đã gây nên niềm xúc động lớn trong nhân dân.Theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang, Nguyễn Đình Chiểu làm bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, để đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đánh này.
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một “Tác phẩm nghệ thuật” hiếm có. “Bi tráng” là tầm vóc và tính chất của tác phẩm nghệ thuật ấy: vừa hoành tráng, hùng tráng, vừa thống thiết, bi ai. Hùng tráng ở nội dung chiến đấu vì nghĩa lớn. Hùng tráng ở phẩm chất anh hùng, ở đức hi sinh quyết tử. Hùng tráng ở chỗ nó dựng lên một thời đại sóng gió dữ dội, quyết liệt của đất nước và dân tộc.
Mở đầu bài văn tế là hai tiếng “Hỡi ôi!” vang lên thống thiết, đó là tiếng khóc của nhà thơ đối với nghĩa sĩ, là tiếng nấc đau thương cho thế nước hiểm nghèo:
“Súng giặc, đất rền; lòng dân trời tỏ” có ý nghĩa là Tổ quốc lâm nguy, súng giặc nổ vang rền trời đất và quê hương .
Trong cảnh nước mất nhà tan, chỉ có nhân dân đứng lên gánh vác sứ mệnh lịch sử, đánh giặc cứu nước cứu nhà. Và người nông dân chỉ biết cui cút làm ăn một cách tội nghiệp đã dũng cảm đứng lên đánh giặc giành lại để giành lại nền độc lập cho Tổ quốc thân yêu mà sự dũng cảm đó xuất phát từ tấm lòng yêu nước có trong mỗi con người. Tấm lòng yêu nước, căm thù giặc của những người nông dân, của những người áo vải mới tỏ cùng trời đất và sáng ngời chính nghĩa. Hình ảnh chính của bài Văn tế chính là những chiến sĩ nghĩa quân Cần Giuộc.
Nguồn gốc của họ là nông dân nghèo sống cuộc đời “côi cút” sau luỹ tre làng. Chất phác và hiền lành, cần cù và chịu khó trong làm ăn, quanh quẩn trong xóm làng, làm bạn với con trâu, đường cày, sá bừa, rất xa lạ với cung ngựa trường nhung:
“Nhớ linh xưa:
Côi cút làm ăn; toan lo nghèo khó”
“Côi cút làm ăn” có nghĩa là làm ăn lẻ loi, thầm lặng một cách tội nghiệp.Dù mệt mỏi hay vất vả thì họ vẫn âm thầm, lặng lẽ chịu đựnng một mình mà chẳng nói với ai .“Côi cút làm ăn; toan lo nghèo khó” đã hiện lên đầy đủ một vòng đời không lối thoát của người nông dân Việt, người “dân ấp dân lân” Nam Bộ. Bắt đầu bằng cui cút, vật lộn làm ăn, toan lo để cuối cùng kết thúc trong nghèo khó.Họ là những người nông dân mà quanh năm chỉ biết làm lụng, chưa hề biết đến cái gì gọi là cung, ngựa.
“Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”.
Họ là lớp người đông đảo, sống gần gũi quanh ta. Quanh năm chân lấm tay bùn với nghề nông, “chưa hề ngó tới” việc binh và vũ khí đánh giặc:
“Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”.
Thế nhưng khi đất nước quê hương bị giặc Pháp xâm lược, những người dân chân lấm tay bùn ấy đã đứng lên tình nguyện làm quân tự nguyện đánh giặc cứu nước cứu nhà, bảo vệ cái nghề làm lụng mà họ coi là bát cơm manh áo của họ là cái nghĩa lớn mà họ “mến” là đeo đuổi.
“Bữa thấy bong bong che trắng lốp, muốn tới an gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”.
Đối với giặc Pháp và lũ tay sai bán nước, họ chỉ có 1 thái độ: “ăn gan” và “cắn cổ”,chỉ có 1 chí hướng: “phen này xin ra sức đoạn kình…, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.
Trong tác bài Văn Tế Nguyễn Đình Chiểu đã có khắc nên sự đối lập giữa đoàn dũng sĩ của quê hương và giặc Pháp xâm lược.Giặc xâm lược được trang bị tối tân, có “tàu thiếc, tàu đồng”, “bắn đạn nhỏ, đạn to”, có bọn lính đánh thuê “mã tà, ma ní” thiện chiến. Trái lại, trang bị của nghĩa quân lại hết sức thô sơ. Quân trang chỉ là “1 manh áo vải”, vũ khí chỉ có “một ngọn tầm vông”, hoặc “một lưỡi dao phay”, một súng hoả mai khai hoả “bằng rơm con cúi”. Thế mà họ vẫn lập được chiến công: “đốt xong nhà dạy đạo kia” và “chém rớt đầu quan hai nọ”.
Bài Văn tế đã tái hiện lại những giờ phút giao tranh ác liệt của các chiến sĩ nghĩa quân với giặc Pháp:
“Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.”
“Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho ma ní, mã tà hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ”.
Không khí chiến trận có tiếng trống thúc quân giục giã, “có bọn hè trước, lũ ó sau” vang dậy đất trời cùng tiếng súng nổ. Các nghĩa sĩ của ta coi cái chết như không, tấn công như vũ bão, tung hoành giữa đồn giặc: “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang chém ngược”, “hè trước, ó sau”. Giọng văn của Nguyễn Đình Chiểu đã tô đậm tinh thần dũng cảm, kiên cường bất khuất của các nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc.Ông cũng thể hiện rõ lòng khâm phục đối với người nghĩa sĩ nông dân.Từ trước đến nay, đây là tác phẩm đầu tiên có đưa hình ảnh của nghĩa sĩ nông dân.
Tóm lại, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” khẳng định, tấm lòng yêu thương dân thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu.“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là niềm tự hào và biết ơn sâu sắc của nhân dân ta đối với người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc đã anh dũng chiến đấu chống giặc ngoại xâm bảo vệ nền độc lập vững chắc của quê nhà, nơi họ đã sinh ra và lớn lên hay đó là Tổ quốc mà đối với họ “nó” rất quan trọng trong cuộc đời.Nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc chính là tấm gương về tinh thần dũng cảm, lòng yêu nước sâu sắc để cho các thế hệ đi sau khi đọc được bài văn Tế này mà noi theo để xây dựng đất nước càng ngày giàu mạnh hơn.
Phân tích 15 câu đầu văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc học sinh giỏi – Bài mẫu 5
Nói đến văn tế chúng ta nghĩ ngay đến thể loại văn gắn bó với phong tục tang lễ. Các bài văn thế chủ yếu bày tỏ lòng tiếc thương với người đã mất và mang hai nội dung cơ bản kể về cuộc đời, công đức, phẩm hạnh người đã mất và bày tỏ nỗi đau thương của người sống đối với người đã mất. Trong nền văn học cổ, có rất nhiều bài văn tế nhưng một trong những bài văn tế gây xúc động lòng người và mang tính sử thi bi tráng là tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc của Nguyễn Đình chiểu. Bài văn tế được Nguyễn Đình Chiểu viết theo yêu cầu của Đỗ Quang – tuần phủ Gia Định. Nội dung tế những nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận tập kích đồn quân Pháp ở Cần Giuộc. Đây là tác phẩm đầu tiên trong văn học, người nông dân nghĩa sĩ chống giặc ngoại xâm được dựng thành tượng đài nghệ thuật bất tử, gây xúc động lòng người khắp chốn. Trong đó 15 câu đầu bài văn tế đã xây dựng lên hình ảnh người nghĩa sĩ với vẻ mộc mạc, chân chất nhưng có tinh thần yêu nước nồng nàn, dũng cảm.
Tác phẩm ra đời vào năm 1858 khi thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng. Chúng tiếp tục bành trướng bàng cách mở rộng tấn công các vùng lân cận như Tân An, Cần Giuộc… Quá căm phẫn trước sự tàn ác đà đàn áp của kẻ thù, những người nông dân nghĩa sĩ tự đứng lên, chiến đấu tập kích đồn pháp ở Cần giuộc và tiêu diệt được hai tên quan Pháp cùng một số lính thuộc địa. Sau đó họ làm chủ được hai ngày rồi bị thất thủ. Nghĩa quân hi sinh khoảng 20 người. Đây là một cuộc chiến không cân sức, họ biết nhưng vẫn dũng cảm đứng lên, chính sự hi sinh của họ đã cổ vũ và khích lệ to lớn cho tinh thần yêu nước và chống giặc ngoại xâm. Cảm kích trước tấm lòng và lòng dũng cảm của họ, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài văn tế theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định để đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ hi sinh trong trận đấu này.
Mở đầu bài văn tế là câu than Hỡi ôi! Tiếng than xót xa cho thân phận cuộc đời những người nghĩa sĩ, họ đã hi sinh ở chiến trường. Đây cũng là tiếng khóc thương cho thế nước hiểm nghèo:
Hỡi ôi
Súng giặc, đất rền, lòng dân trời tỏ
Ngay câu mở đầu Nguyễn Đình Chiểu đã cho thấy được hoàn cảnh của đất nước bấy giờ. Đó là tổ quốc đang lâm nguy, súng giặc nổ rền vang khắp trời, lòng dân hoang mang lo sợ. Lúc này đây cần lắm một cuộc chiến để có thể khích lệ tinh thần chiến đấu của nhân dân. Bởi chúng ta đang ở thế yếu, chúng ta đang bị xâm chiếm, đất nước đang bị đau đớn, đang chảy máu bởi tiếng súng nổ khắp nơi. Nhân dân tan tác, sợ hãi.
Vậy mà, lúc này đây, người nghĩa sĩ đứng lên không ai khác chính là những người nông dân áo vải:
Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ
Trong cảnh nước mất nhà tan thì chỉ có nhân dân đứng lên gánh vác sứ mệnh, đánh giặc cứu nước. Người nông dân vốn là những người lao động khốn khổ, quanh năm ruộng đất nào biết đánh nhau là gì. Vậy mà khi tổ quốc cần, họ sẵn sàng gác cuốc, bỏ lại ruộng vườn, bỏ lại áo vải, khoác lên mình áo lính, cầm giáo xông lên đánh giặc. Trước sự hùng mạnh của kẻ thù là súng đạn bọc thép, người nông dân vẫn không sợ hãi, họ vẫn đứng lên chống lại kẻ thù vì quá căm phẫn trước sự tàn ác của chúng.
Câu văn tế trên cũng cho thấy, chỉ một trận đánh Tây mà họ tuy hi sinh nhưng tiếng thơm cả đời, âu cũng được an ủi phần nào.
Nhớ lính xưa
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhưng; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó
Những người nghĩa sĩ ấy nguồn gốc chính là nông dân. Họ hàng ngày chỉ cun cút làm ăn, lo toan nghèo khó, quanh quẩn với cuộc sống hàng ngày mà không thoát được cái nghèo. Cả đời chỉ biết cuốc đất, làm vườn. Cách sử dụng từ “cun cút” cho thấy họ là những người thấp cổ bé họng, tội nghiệp, không tiếng nói. Họ chưa từng biết đánh trận là gì, họ thành thạo cày bừa cuốc mướn, nhưng giáo mác cờ ngựa thì chưa hề động đến.
Vậy mà khi tổ quốc lâm nguy, họ cũng không sợ hãi nề hà, họ sẵn sàng đứng lên đấu tranh dù họ biết, với thế lực của mình khó có thể dành chiến thắng. Nhưng lòng căm thù giặc sôi sục không thể không đứng lên. Những người nghĩa sĩ Cần Giuộc chính là những người tiên phong cho các cuộc kháng chiến trường kì sau này.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”.
Lòng căm thù của các nghĩa sĩ nông dân thể hiện rõ trong câu văn tế trên. Nhìn thấy giặc chỉ muốn tới ăn gan và cắn cổ. Họ căm thù tới tận xương tủy. Lại nhớ đến bài Hịch Tướng Sĩ của Trần Quốc Tuấn khi đau lòng trước cảnh giặc tàn phá cướp nước “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt, lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”
Các nghĩa sĩ nông dân dù quanh năm ruộng vườn mà lòng căm thù giặc không thua kém gì các bậc tiền tài yêu nước thương dân. Lòng dân căm phẫn cũng muốn ăn gan kẻ thù, dẫu cho phải chết cũng không hề thấy tiếc.
Phân tích 15 câu đầu bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc – Họ hiểu rằng, nước ta là một nước độc lập há gì lại để cho kẻ khác đứng lên trừ lũ xâm lăng mà không phải chính chúng ta tự đứng lên? Câu văn tế: Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu, hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó đã khẳng định được chủ quyền dân tộc và lòng quyết tâm đánh đuổi kẻ thù. Đâu cần phải đợi và ai bắt, phen này họ ra sức đánh bại kẻ thù, chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi… Tất cả đều nói lên lòng dũng cảm, căm thù giặc sâu sắc, ý chí sắt đá, kiên định của những người nghĩa sĩ nông dân. Điều mà không phải ai cũng có thể làm được.
Tiếp theo tác giả khẳng định một lần nữa, những người nghĩa sĩ nông dân này không hề biết gì đến chuyện đấu đá, đánh nhau, việc lính việc binh đao:
Vốn chẳng phải quân cơ vệ, theo dòng ở lính diễn binh; chẳng qua là dân ấp dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ
Bởi vậy Nguyễn Đình Chiểu mới thốt lên Khá Thương Thay! Bởi vì họ là người nông dân đơn thuần vì lòng căm thù mà đứng lên chống giặc. Họ không hề có tấc sắt trong tay, không kinh nghiệm, không phải con nhà binh, ấy vậy mà dũng cảm đứng lên . Đây là một sự thương cảm, đồng cảm và xen lẫn sự cảm phục của tác giả đối với những con người hừng hực khí thế anh hùng ấy.
Dẫu vậy, tinh thần chiến đấu của họ vẫn không nguôi. Cuộc chiến của họ không chờ bày bố. Ngoài cật có manh áo vải, trong tay một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ; hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia, gươm đeo bằng lưỡi dao phay… Như vậy, ta có thể thấy thế trận của bên ta khá đơn giản, các binh đao đánh trận chủ yếu là những dụng làm việc hàng ngày như dao phay rồi rơm con cúi. Họ ra trận bình thản với những gì có trên người hàng ngày. Một thế trận chênh lệch với kẻ thù khi kẻ thù sở hữu đạn thép, tàu đồng, súng nổ.
Ấy vậy mà tinh thần chiến đấu hào hực, nghĩa sĩ nông dân giết được tên quan pháp và một số lính thuộc địa,thậm chí còn cố thủ được 2 ngày. Dao phay vẫn chém được đầu kẻ thù, Rơm con cúi cũng đốt được nhà. Họ đã chiến đấu dũng cảm bằng tất cả lòng yêu nước và căm thù giặc. Đánh kẻ thù mà chẳng hề sợ hãi ““nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.” Và còn làm cho giặc thất kinh sợ hãi.
Các nghĩa sĩ Cần Giuộc đã coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Cuộc chiến không cần khua chiêng gõ trống, nhưng tinh thần chiến đấu của họ hừng hực khí thế còn mạnh hơn cả bất kì tiếng trống nào. Họ đạp rào lướt tới, xô cửa xông vào, đâm ngang chém dọc… Tất cả những lời mô tả của Nguyễn Trãi đã thể hiện tinh thần chiến đấu dũng cảm, bất khuất, kiên cường của các nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Tác phẩm Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc chính là bản hùng ca bi tráng vang danh lịch sử. Nó cũng chính là tấm lòng yêu thương của Nguyễn Trãi dành cho các nghĩa sĩ và niềm tự hào biết ơn sâu sắc nhân dân đối với những người nghĩa sĩ nông dân. Họ chính là tấm gương về lòng yêu nước nồng nàn, cổ vũ cho tinh thần yêu nước của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, giành lại độc lập cho dân tộc.
—————————-
Trên đây Toptailieu vừa sưu tầm 10 bài mẫu Cảm nhận và phân tích 15 câu đầu văn tế nghĩa sĩ học sinh giỏi. Hy vọng bài viết trên hữu ích cho bạn. Chúc bạn học tốt!