Đất nước Việt Nam trải qua nhiều quá trình lịch sử cùng với đó là các vị anh hùng dân tộc, có tinh thần yêu nước, thương dân. Người được giảng viên giới thiệu là có tư tưởng về đoàn kết, tập hợp lực lượng làm cách mạng bao gồm: Tín đồ Thiên Chúa giáo, Du đồ hội đảng, Nhi nữ anh sĩ, Thông ngôn, Ký lục, Bồi bếp là Phan Bội Châu.

Câu hỏi: Ai là người được giảng viên giới thiệu là có tư tưởng về đoàn kết, tập hợp lực lượng làm cách mạng bao gồm: Tín đồ Thiên Chúa giáo, Du đồ hội đảng, Nhi nữ anh sĩ, Thông ngôn, Ký lục, Bồi bếp?

A. Hoàng Hoa Thám

B. Phan Bội Châu

C. Phan Châu Trinh

D. Lênin

Đáp án đúng: B. Phan Bội Châu

Giải thích của giáo viên Toploigiai về lí do chọn đáp án B 

Người được giảng viên giới thiệu là có tư tưởng về đoàn kết, tập hợp lực lượng làm cách mạng bao gồm: Tín đồ Thiên Chúa giáo, Du đồ hội đảng, Nhi nữ anh sĩ, Thông ngôn, Ký lục, Bồi bếp là Phan Bội Châu. Ông là người có tinh thần yêu nước, luôn tiên phong trong các phong trào yêu nước đấu tranh giải phóng dân tộc

– Phan Bội Châu – tư tưởng về đoàn kết, tập hợp lực lượng

Đầu tiên, về tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết là một hệ thống quan điểm, nguyên tắc, phương pháp giáo dục, tổ chức, tập hợp lực lượng cách mạng nhằm đoàn kết rộng rãi các giai tầng trong xã hội, phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của dân tộc của quốc tế, đấu tranh cho độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH. Trong 90 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết trong tiến trình lãnh đạo cách mạng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết là sự kế thừa truyền thống đoàn kết, nhân ái của dân tộc Việt Nam.

Tư tưởng về nội lực luôn xuyên suốt trong đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc của Phan Bội Châu. Để giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh với kẻ thù không đội trời chung với dân tộc Việt Nam, chúng ta phải có một nguồn lực mạnh. Trong hoàn cảnh một nước thuộc địa nửa phong kiến với một nền kinh tế tự cung, tự cấp lại phải đối mặt với một nước đế quốc có tiềm lực kinh tế mạnh, theo Phan Bội Châu, chúng ta cần thiết phải tiến hành: một mặt, xây dựng và phát huy sức mạnh của các yếu tố cấu thành nội lực, như kinh tế, văn hóa, truyền thống và con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam; mặt khác, phải tranh thủ sự viện trợ, giúp đỡ của nước ngoài, đặc biệt là những nước mạnh để vừa bổ sung, tăng cường thực lực của mình, vừa tiếp thu, học tập kinh nghiệm của họ.

Theo Phan Bội Châu, kế hoạch chủ yếu dựa vào người nước ngoài để làm cách mệnh là một kế hoạch hoang đường. Ông vạch rõ cho mọi người hiểu rằng, “trong nước không có tổ chức, kinh dinh gì, mà chỉ hư trương ngoại lực, vạn sự ỷ nhân (hư trương thế lực bên ngoài, trăm nghìn sự việc đều dựa vào người khác). Xưa nay đông tây tuyệt không một đảng cách mệnh nào, chỉ là đoàn “ăn mày” mà thành công được”.

Trong đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc, chủ trương làm cách mạng bạo lực nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa dân tộc ta và thực dân Pháp là khuynh hướng chủ đạo trong tư tưởng của Phan Bội Châu. Đối với Phan Bội Châu, cứu nước, giải phóng dân tộc là mục đích tối cao, nhất quán trong mọi suy tư và hoạt động chính trị của mình. Theo ông, để thực hiện mục đích này cần phải có một nguồn lực cần thiết để lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp, trước hết là nguồn lực trong nước – nguồn nội lực; còn ngoại viện chỉ làm thanh thế cho nội lực mà thôi.
Ai là người được giảng viên giới thiệu là có tư tưởng về đoàn kết, tập hợp lực lượng làm cách mạng bao gồm: Tín đồ Thiên Chúa giáo, Du đồ hội đảng, Nhi nữ anh sĩ, Thông ngôn, Ký lục, Bồi bếp?

– Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc

Đại đoàn kết dân tộc là một giá trị tinh thần to lớn, một truyền thống cực kì quý báu của dân tộc ta, được hun đúc trong suốt mấy nghàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đoàn kết đã trở thành một động lực to lớn, một triết lý nhân sinh và hành động để dân tộc ta vượt qua bao biến cố, thăng trầm của thiên tai, địch họa, để tồn tại và phát triển bền vững. Trên cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam và thực tiễn cách mạng thế giới đã sớm hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc phải trên cơ sở lấy lợi ích tối cao của dân tộc và quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động làm nền tảng, kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, bộ phận và toàn cục, giai cấp và dân tộc, quốc gia và quốc tế. Nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc tiếp tục được khẳng định: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác”, và sau này Người bổ sung thêm nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc là liên minh giữa công nhân, nông dân với trí thức: “Trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang; và công, nông, trí cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối”. Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh luôn có sự kết hợp hài hòa, quyện chặt và nhất quán giữa yếu tố dân tộc và yếu tố giai cấp. Đoàn kết dân tộc trên cơ sở lấy liên minh công nông làm gốc, không một lúc nào quên đi lợi ích giai cấp song Người cũng có một tư duy vượt trước khi khẳng định chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của cách mạng Việt Nam.

Tư tưởng đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân tộc giữ vị trí đặc biệt quan trọng, nhất quán và xuyên suốt trong đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam. Trải qua các thời kỳ cách mạng, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được hoàn thiện, phát triển. Đảng luôn xác định, “đoàn kết” là giá trị cốt lõi, “đại đoàn kết toàn dân tộc” là đường lối chiến lược, là cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam, có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.