Top tài liệu

MÙA XUÂN NHỎ NHỎ

(Thanh Hải)

Mọc giữa dòng sông xanh Ta làm con chim hót

Một bông hoa tím biếc Ta làm một nhành hoa

Ơi con chim chiền chiện Ta nhập vào hòa ca

Hót chi mà vang trời Một nốt trầm xao xuyến

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng

Mùa xuân người cầm súng Một mùa xuân nho nhỏ

Lộc giắt đầy quanh lưng Lặng lẽ dâng cho đời

Mùa xuân người ra đồng Dù là tuổi hai mươi

Lộc trải dài nương mạ Dù là khi tóc bạc

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao….

Đât nước bồn nghìn năm Mùa xuân – ta xin hát

Vất vả và gian lao Khúc Nam ai, Nam bình

Đất nước như vì sao Nước non ngàn dặm mình

Cứ đi lên phía trước Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế

A. KIẾN THỨC CƠ BẢN

I. Tác giả:

Thanh hải (1930-1980) tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông hoạt động văn nghệ từ cuối những năm kháng chiến chống Pháp. Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, Thanh Hải ở lại quê hương hoạt động và là một trong những cây bút có xây dựng nền văn học Cách mạng ở miền Nam từ những ngày đầu.

II. Tác Phẩm:

1. Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được viết vào tháng 11/1980, không bao lâu sau trước khi nhà thơ qua đời, thể hiện niềm yêu mến cuộc sống, yêu nước thiết tha và ước nguyện của tác giả.

2. Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật:

– Nội dung: Bài thơ là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời, thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước, góp một mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.

– Nghệ thuật: bài thơ theo thể năm tiếng, có nhạc điệu trong sáng, tha thiết gần gũi với dân ca, nhiều hình ảnh đẹp, giản dị, gợi cảm, so sánh ẩn dụ và sáng tạo.

3. Mạch cảm xúc và bố cục.

* Mạch cảm xúc: Được khơi nguồn, nảy nở từ sức sống, vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mở rộng ra với mùa xuân đất nước, cách mạng. Cảm xúc lắng đọng dần vào suy tư và ước nguyện: nhà thơ muốn nhập vào bản hòa ca vĩ đại của cuộc đời bằng một nốt trầm xao xuyến của riêng mình, góp vào mùa xuân chung lớn lao “một mùa xuân nho nhỏ”. Bài thơ khép lại với những cảm xúc thiết tha, tự hào về quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.

* Bố cục: Gồm 4 phần:

– Khổ 1: Cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên, đất trời.

– Khổ 2 + 3: Cảm xúc về mùa xuân của đất nước.

– Khổ 4 + 5: Suy nghĩ và ước nguyện của tác giả trước mùa xuân của đất nước.

– Khổ cuối: Lời ngợi ca quê hương, đất nước qua điệu dân ca Huế.

4. Tên bài thơ:

– “Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tác độc đáo, một phát hiện mới mẻ của nhà thơ.

– Hình ảnh “mùa xuân nho nhỏ” là biểu tượng cho những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất của sự sống và cuộc đời mỗi con người.

– Thể hiện quan điểm về sự thống nhất giũa cái riêng và cái chung, giũa cá nhân và cộng đồng.

– Thể hiện nguyện ước của nhà thơ muốn làm một mùa xuân, nghĩa là sống đẹp sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình rất khiêm nhường, là “một mùa xuân nhỏ” góp vào một mùa xuân của thiên nhiên, đất nước, của cuộc đời chung và khát vọng sống chân thành, cao đẹp của nhà thơ. Đó cũng chính là chủ đề của bài thơ mà nhà thơ muốn gửi gắm.

B. PHÂN TÍCH BÀI THƠ

I. Cám xúc của nhà thơ trước mùa xuân của thiên nhiên (6 câu đầu):

– Bức tranh mùa xuân thiên nhiên trong 6 câu thơ đầu được vẽ bằng vài nét khắc họa nhưng rất đặc sắc.

– Không gian cao rộng của bầu trời, rộng dài của dòng sông, màu sắc hài hòa của bông hoa tím biếc và dòng sông xanh – đặc trưng của xứ Huế.

– Rộn rã, tươi vui với âm thanh tiếng chim chiền chiện hót vang trời, tiếng chim trong ánh sáng xuân lan tỏa khắp khung trời như đọng thành “từng giọt long lanh”.

– Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân đất trời thể hiện qua cái nhìn trìu mến với cảnh vật, trong những lời bộc lộ trực tiếp như lời trò chuyện với thiên nhiên “ ơi, hót chi … mà …” Đặc biệt cảm xúc của nhà thơ được thể hiện trong một động tác trữ tình đón nhận vừa trân trọng vừa tha thiết trìu mến với mùa xuân: Đưa tay hứng lấy từng giọt long lanh của tiếng chim chiền chiện.

“Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng”

– Có thể hiểu câu thơ theo cách khác nhau. Trước hết, “giọt long lanh” là những giọt mưa mùa xuân, giọt sương mùa xuân, trong sáng, rơi xuống từng nhành cây, kẽ lá như những hạt ngọc.

– Ở đây, giọt long lanh cũng có thể được hiểu theo nghĩa ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Tiếng chim từ chỗ là âm thanh (cảm nhận bằng thính giác) chuyển thành từng giọt (hình và khối, cảm nhận bằng thị giác), từng giọt ấy lại long lanh ánh sáng và màu sắc, có thể cảm nhận bằng xúc giác “Tôi đưa tay tôi hứng”. Dù hiểu theo cách nào thì hai câu thơ vẫn thể hiện cảm xúc say sưa ngây ngất của tác giả trước cảnh đất trời xứ Huế vào xuân, thể hiện mong muốn hòa vào thiên nhiên đất trời trong tâm tưởng giũa mùa đông lạnh giá khiến ta vô cùng khâm phục.

II. Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của đất nước (10 câu tiếp theo).

– Hình ảnh lộc xuân tràn theo người ra đồng làm đẹp ý thơ với cuộc sống lao động và chiếnđấu. Xây dựng và bảo vệ, hai nhiệm vụ không thể tách rời, họ đã đem mùa xuân đến mọi noi trên đất nước.

“Mùa xuân người cầm sung

Lộc giắt đầy quanh lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ”

+ “Mùa xuân người cầm súng. Lộc giắt đầy quanh lưng”: Liên tưởng đến những người chiến sĩ khi ra trận mà trên vai, trên lưng họ có cành lá ngụy trang. Những cành lá ấy mang lộc biếc, chồi non, mang theo cả mùa xuân của thiên nhiên, cây cỏ. Từ “Lộc” còn làm cho người ta liên tưởng đến hình ảnh người lính khi ra trận, mang theo sức sống của cả dân tộc. Chính màu xanh sức sống đó đã tiếp thêm sức mạnh ý chí để họ vươn xa ra phía trước tiêu diệt quân thù.

+ “Mùa xuân người ra đồng. Lộc trải dài nương mạ”: Nói về những người lao động, những người ươm mầm cho sự sống, ươm những hạt mầm non trên những cánh đồng quê hương. Từ “lộc” cho ta nghĩ tới cánh đồng trải dài mênh mông với những chồi non mới nhú lên xanh biếc từ những hạt thóc giống đầu mùa xuân. Từ “lộc” còn mang sức sống, sức mạnh của con người. Có thể nói chính con người đã tạo nên sức sống mùa xuân thiên nhiên đất nước.

+ “Tất cả như hối hả. Tất cả như xôn xao”. Nhà thơ Thanh Hải đã cảm nhận mùa xuân đất nước bằng hai từ láy gợi cảm “hối hả” là vội vã, khẩn trương, không dừng lại. “xôn xao” khiến ta nghĩ tới những âm thanh liên tiếp vọng về, hòa lẫn với nhau xao động. Đây chính là tâm trạng tác giả, cái náo nức trong tâm hồn. Tiếng lòng của tác giả như reo vui náo nức, trước tinh thần lao động khẩn trương của con người. Mùa xuân đất nước được làm nên từ cái hối hả ấy. Sức sống của đất nước, của dân tộc cũng được tạo nên từ sự hối hả, náo nức của người cầm súng, người ra đồng. Như vậy, hình ảnh mùa xuân đất nước đã được mở rộng dần. Đầu tiên, nó chỉ gói gọn trong đôi vai, tấm lưng của người ra trận, đã được mở rộng thành một cánh đồng bao la.

– Nhà thơ tin tưởng, tự hào về tương lai tươi sáng của đất nước cho dù trước mắt còn nhiều vất vả khó khăn. Và đất nước được hình dung bằng một hình ảnh so sánh thật đẹp mang nhiều ý nghĩa:

“Đất nước bốn nghìn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước”

Sao là một nguồn sáng lấp lánh, là vẻ đẹp vĩnh hằng vượt qua mọi không gian và thời gian. Sao cũng là hình ảnh rạng ngời trên lá cờ Tổ quốc. Qua đó, tác giả Thanh Hải bộc lộ niềm tự hào về một đất nước Việt Nam anh hùng và giàu đẹp. Đất nước mãi trường tồn và vĩnh cửu cùng vũ trụ, không bao giờ mất đi và không một thế lực nào ngăn cản được. Nhất định đất nước cũng phải tỏa sáng như những vì sao trong hành trình tới tương lai rực rỡ, đi đến bến bờ hạnh phúc. Đó là chí quyết tâm, niềm tin sắt đá, niềm tự hào lạc quan của cả dân tộc. Ở câu thứ hai, phụ từ “cứ” kết hợp với động từ “đi lên” thể hiện quyết tâm cao độ, hiên ngang tiến lên phía trước, vượt qua mọi khó khăn. Cảm xúc của nhà thơ là cảm xúc lạc quan, tin tưởng, ngợi ca sức sống quê hương đất nước của dân tộc mỗi khi mùa xuân về.

III. Ước nguyện của nhà thơ (8 câu tiếp theo).

Muốn làm những việc hữu ích dâng hiến cho đời bày tỏ qua những hình ảnh tự nhiên, giản dị. Đẹp tự nhiên và giàu cảm xúc ý nghĩa vì nhà thơ đã lấy cái đẹp tinh túy của thiên nhiên để diễn tả vẻ đẹp của tâm hồn:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một nhành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến”

– Làm “con chim hót” giữa mùa xuân muôn ngàn tiếng chim vô tư cống hiến tiếng hót vui, làm “một cành hoa” giũa vườn hoa xuân rực rỡ vô tư cống hiến hương sắc cho đời, “một nốt trầm” giũa bản hòa tấu muôn điệu, làm một “một mùa xuân nho nhỏ” góp vào mùa xuân lớn của đất nước, của cuộc đời chung. Ở phần đầu bài thơ, tác giả đã phác họa hình ảnh mùa xuân bằng những chi tiết bông hoa và tiếng chim hót. Cấu tứ lặp lại như vậy tạo ra sự đối ứng chặt chẽ. Hình ảnh chọn lọc ấy trở lại đã mang một ý nghĩa mới: niềm mong muốn sống có ích, cống hiến cho đời là một lẽ tự nhiên.

– Điệp từ “ta” như một lời khẳng định. Nó không chỉ là lời tâm niệm thiết tha, chân thành của nhà thơ mà nó còn đề cập đến một vấn đề lớn là khát vọng chung của nhiều người.
“Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc”

Ước nguyện hóa thân vô cùng cháy bỏng, nhưng được tác giả âm thầm “lặng lẽ dâng cho đời”, ”Nho nhỏ”, “lặng lẽ” là cách nói khiêm tốn, chân thành mà giản dị, là cách sống cao đẹp. Tác giả muốn mỗi người là mùa xuân nhỏ vào cuộc sống, là ước nguyện sống có ích, được cống hiến cho đời như Tố Hữu đã viết trong “Một khúc ca xuân”:

“Nếu là con chim, chiếc lá

Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh

Lẽ nào vay mà không có trả

Sống là cho dân, đâu chỉ nhận riêng mình?”

– “Mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo, cũng là cách thể hiện thiết tha, cảm động. Nó đã khắc sâu ý tưởng: “Mỗi cuộc đời đã hóa núi sông ta” (Nguyễn Khoa Điềm). Đó không phải mong muốn trong một lúc và cả một cuộc đời “Dù là tuổi hai mươi. Dù là khi tóc bạc”. Điệp từ “dù là” khiến âm điệu câu thơ tha thiết sâu lắng, ý thơ được nhấn mạnh làm cho người đọc không chỉ xúc động trước một giọng thơ ấm áp, mà còn xúc động trước lời tâm sự thiết tha của một con người đã từng trải qua hai cuộc kháng chiến, đã cống hiến trọn cuộc đời và sự nghiệp cho cách mang vẫn tha thiết được sống đẹp, sống có ích với tất cả sức sống tươi trẻ của mình cho cuộc đời chung. Bài thơ được viết một tháng trước khi nhà thơ trở về với cát bụi nhưng không gợi chút băn khoăn về bệnh tật, những suy nghĩ riêng tư cho bản thân mà chỉ “ lặng lẽ cháy bỏng một khát khao được dâng hiến”.

IV. Lời ngợi ca quê hương đất nước qua điệu dân ca xứ Huế (Khổ cuối).

Như một nhịp lấy lại của khúc dân ca dịu dàng, đằm thắm tăng giá trị biểu hiện của các khổ thơ trên dem lại thi vị Huế trìu mến tha thiết.

“Mùa xuân tax in hát

Khúc Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế…”

– Bài thơ khép lại trong âm điệu khúc Nam ai, Nam bình xứ Huế. Đoạn thơ kết thúc như một khúc hát ca ngợi mùa xuân để lại dư vị sâu lắng. Nhà thơ muôn hát một điệu Nam ai, Nam bình, điệu dân ca tha thiết xứ Huế để đón mừng mùa xuân. Câu ca như một lời từ biệt để hòa vào vĩnh viễn.

– “Nước non ngàn dặm mình. Nước non ngàn dặm tình” còn ngân nga mãi mãi. Phải yêu đời lắm, phải lạc quan lắm mới có thể hát được trong hoàn cảnh nhà thơ lúc đó (đang ốm nặng và sắp qua đời) Điệu đó càng làm ta yêu quý tiếng hát và tấm lòng nhà thơ. Như vậy xuyên suốt bài thơ không chỉ là hình tượng mùa xuân. Từ tiếng chim chiền chiện tượng trưng cho khúc hát của đất trời đến làm một nốt nhạc trầm nhập vào bản hòa ca đất nước, và đến đây là khúc hát tạo ấn tượng một bài ca không dứt. Một bài ca yêu cuộc sống. Bài thơ được nhạc sĩ Trần Hoàn phổ nhạc thành bài hát và trở thành một khúc ca xuân quen thuộc, xúc động, còn mãi với đời.

V. Nghệ thuật đặc sắc:

– Thể thơ 5 chữ gần với điệu dân ca, âm hưởng trong sáng, nhẹ nhàng, tha thiết, điệu thơ như điệu của tâm hồn, cách gieo vần liền tạo sự liền mạch của dòng cảm xúc.

– Hình ảnh tự nhiên giản dị, những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng, đặc biệt một số hình ảnh cành hoa, con chim, mùa xuân được lặp đi lặp lại và nâng cao gây ấn tượng đậm đà.

– Câu tứ bài thơ chặt chẽ, chủ yếu dựa trên sự phát triển của hình tượng mùa xuân : từ mùa xuân đất trời –> đất nước  con người.

– Giọng điệu bài thơ phù hợp với cảm xúc của tác giả: Ở đoạn đầu vui, say sưa với vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, rồi phấn chấn, hối hả trước khí thế lao động của đất nước. Và cuối cùng là trầm lắng, hơi trang nghiêm mà thiết tha bộc bạch, tâm niệm.

VI. Trong phần đầu bài thơ, tác giả dung đại từ “tôi” sang phần sau lại dung đại từ “ta”. Em hiểu như thế nào về sự chuyển đổi đại từ nhân xưng ấy của chủ thể trữ tình.

– Tôi và ta đều là đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất.

– Giữa hai phần của bài thơ có sự chuyển đổi đại từ nhân xưng của chủ thể trữ tình từ “tôi” sang “ta”. Điều này không phải hoàn toàn là ngẫu nhiên mà đã được tác giả sử dụng như một dụng ý nghệ thuật thích hợp với sự chuyển biến của cảm xúc và tư tưởng trong bài thơ. Chữ “tôi” trong câu “tôi đưa tay tôi hứng” ở khổ thơ đầu vừa thể hiện một cái “tôi” cụ thể rất riêng của nhà thơ, vừa thể hiện được sự nâng niu, trân trọng với vẻ đẹp và sự sống của mùa xuân. Nếu thay bằng chữ “ ta” thì hoàn toàn không thích hợp với nội dung cảm xúc ấy mà chỉ vẽ ra một tư thế phô trương.
– Còn trong phần sau, khi bày tỏ điều tâm niệm tha thiết như một khát vọng được dâng hiến giá trị tinh túy của đời mình cho cuộc đời chung thì đại từ “ta” lại tạo được sắc thái quan trọng, thiêng liêng của một lời nguyện ước.

– Hơn nữa, điều tâm nguyện ấy, không chỉ của riêng nhà thơ, mà của biết bao thế hệ người Việt nam đang sống và cống hiến cho sự nghiệp chung, cái “ tôi” của tác giả đã nói thay nhiều cái “ tôi” khác, nó nhất thiết phải hóa thân thành cái ta. Nhưng “ta” mà không hề chung chung vô hình, mà vẫn nhận được một giọng nhỏ nhẹ, khiêm nhường, đằm thắm của cái “tôi” Thanh Hải.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.