TRUYỆN KIỀU
(Nguyễn Du)
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN
I. Tác giả Nguyễn Du
– Tác giả Nguyễn Du (1765-1820)
– Tên chữ là Tố Như
– Hiệu là Thanh Hiên
– Quê ở làng Tiên Điền – huyện Nghi Xuân – tỉnh Hà Tĩnh
– Sáng tác nhiều tác phẩm chũ Hán và chữ Nôm.
+ 3 tập thơ chữ hán gồm 243 bài.
+ Tác phẩm chữ Nôm xuất sắc nhất là Đoạn trường tân thanh thường gọi là Truyện kiều.
Hãy nêu những nét chính về thời đại, gia đình, cuộc đời của Nguyễn Du đã có ảnh hưởng tới việc sáng tác Truyện Kiều?
a. Thời đại
Nguyễn Du sinh trưởng trong một thời đại có nhiều biến động dữ dội, xã hội phong kiến Việt Nam khủng hoảng sâu sắc, phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra liên tục, đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã “một phen thay đổi sơn hà”. Nhưng triều đại Tây Sơn ngắn ngủi, triều Nguyễn lên thay. Những thay đổi động địa ấy tác động mạnh tới nhân thức tình cảm của Nguyễn Du để ông hướng ngòi bút của mình vào hiện thực, vào “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
b. Gia đình
Gia đình Nguyễn Du là gia đình đại quý tộc nhiều đời làm quan và có truyền thống văn chương. Nhưng gia đình ông cũng bị sa sút. Nhà thơ mồ côi cha năm 9 tuổi, mồ côi mẹ năm 12 tuổi. Hoàn cảnh đó cũng tác động lớn tới cuộc đời ông.
c. Cuộc đời
Nguyễn Du có năng khiếu văn học bẩm sinh, ham học, có hiểu biết sâu rộng và từng trải, có vốn sống phong phú với nhiều năm lưu lạc, tiếp xúc với nhiều cảnh đời, nhiều con người, nhiều số phận khác nhau. Ông từng đi sứ sang Trung Quốc, qua nhiều vùng đất Trung Hoa rộng lớn với nhiều nền văn hóa rực rỡ. Tất cả những điều đó có ảnh hưởng tới sáng tác của nhà thơ.
Nguyễn Du là con người có trái tim giàu lòng yêu thương. Chính nhà thơ đã từng viết trong Truyện Kiều “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Mộng Liên Đường Chủ Nhân trong lời nói Tựa Truyện Kiều cũng đề cao tấm lòng của Nguyễn Du với con người, cuộc đời: “Lời văn tả ra hình như có máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thẫm trên tờ giấy khiến ai đọc cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn đến đứt ruột”. Nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có bút lực ấy.
Về sự nghiệp văn học của Nguyễn Du:
– Sáng tác nhiều tác phẩm chữ Hán và chữ Nôm.
+ 3 tập thơ chữ Hán gồm 243 bài.
+ Tác phẩm chữ Nôm có văn chiêu hồn, xuất sắc nhất là Đoạn Trường tân thanh thường gọi là Truyện Kiều
II. Tác phẩm Truyện Kiều
1. Nguồn gốc và sự sáng tạo:
– Xuất xứ Truyện Kiều:
* Viết Truyên Kiều Nguyễn Du có dựa theo cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc).
* Tuy nhiên phần sáng tạo của Nguyễn Du là hết sức lớn, mang ý nghĩa quyết định thành công của tác phẩm.
– Nội dung: Từ câu chuyện tình ở TQ đời Minh biến hành một khúc ca đau lòng thương người bạc mệnh (Vượt xa Thanh Tâm Nhân Tài ở tinh thần nhân đạo).
– Nghệ thuật:
+ Thể loại: chuyển thể văn xuôi thành thơ lục bát – thể thơ truyền thống của dân tộc gồm 3254 câu.
+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật, miêu tả thiên nhiên, đặc biệt là bút pháp tả cảnh ngụ tình.
+ Ngôn ngữ: Truyện Kiều đạt tới đỉnh điểm của ngôn ngữ nghệ thuật.
2. Hoàn cảnh: Sáng tác vào đầu thế kỷ XIX (1805-1809)
3. Thể loại: Truyện nôm: loại truyện thơ viết bằng chữa nôm. Truyện có khi được viết bằng thể thơ lục bát. Có hai loại truyện nôm: truyện Nôm bình dân hầu hết không có tên tác giả, được viết dựa trên cơ sở truyện dân gian; truyện Nôm bác học phần nhiều có tên tác giả được viết dựa trên cốt truyện có sẵn của văn học TQ hoặc do tác giả tự tạo ra. Truyện Nôm phát triển mạnh mẽ nhất ở nửa cuối thế kỷ XVIII và thế kỷ XIX.
4. Ý nghĩa nhan đề:
Truyện Kiều có 2 tên chữ Hán và tên chữ Nôm
– Tên chữ hán: Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân: tên của 3 nhân vật trong truyện: Kim Trọng, Thúy Vân, Thúy Kiều.
Đoạn trường tân thanh: tiếng kêu mới về nỗi đau thương đứt ruột: bộc lộ chủ đề tác phẩm (tiếng kêu cứu cho số phận người phụ nữ).
– Tên chữ nôm: Truyện Kiều: tên nhân vật chính Thúy Kiều – do nhân dân đặt.
5. Tóm tắt Truyện kiều.
a, Phần thứ nhất: Gặp gỡ và đính ước.
Vương Thúy Kiều là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, con gái đầu lòng của một gia đình
trung lưu lương thiện, sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che” bên cạnh cha mẹ và hai em là Thúy Vân và Vương Quan. Trong buổi du xuân nhân tết thanh minh, Kiều gặp Kim Trọng “phong lưu tài mạo tót vời”. Giữa hai người chớm nở mối tình đẹp. Kim Trọng dọn đến ở trọ cạnh nhà Thúy Kiều, nhân trả chiếc thoa rơi, Kim trọng gặp Kiều bày tỏ tâm tình. Hai người chủ động tự do đính ước với nhau.
b, Phần thứ hai: Gia biến và lưu lạc.
Trong khi Kim trọng về Liêu Dương chịu tang chú, gia đình Kiều bị mắc oan. Kiều nhờ Vân trả nghĩa cho Kim Trọng còn nàng thì bán mình chuộc cha. Nàng bị bọn buôn người là Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt, đẩy vào lầu xanh. Sau đó, nàng được Thúc Sinh, một khách làng chơi hào phóng – cứu vớt khỏi cuộc đời kỹ nữ. Nhưng rồi nàng lại bị vợ cả của Thúc Sinh là Hoạn Thư ghen tuông, đầy đọa. Kiều phải trốn đến nương nhờ cửa phật. Sư Giác Duyên vô tình gửi nàng cho Bạc Bà – một kẻ buôn người như Tú Bà. Kiều lại lần thứ hai rơi vào lầu xanh. Tại đây, nàng gặp Từ Hải, một anh hùng đội trời đạp đất. Từ Hải lấy Kiều, giúp nàng báo ân oán. Do mắc lừa quan tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến, Từ Hải bị giết, Kiều phải hầu đàn rượu Hồ Tôn Hiến rồi ép gả cho viên thổ quan. Đau đớn, tủi nhục, nàng trẫm mình ở sông Tiền Đường và được sư Giác Duyên cứu, lần thứ hai Kiều nương nhờ của phật.
c, Phần thứ 3: Đoàn tụ:
Sau nửa năm về chịu tang chú, Kim Trọng trở lại tìm Kiều. Hay tin gia đình Kiều gặp tai biến và nàng phải bán mình chuộc cha, chàng vô cùng đau đớn. Tuy kết duyên với Thúy Vân nhưng chàng vẫn không thể quên mối tình đầu say đắm. Chàng quyết cất công lặn lội tìm Kiều. Nhờ gặp được sư Giác Duyên mà Kim, Kiều tìm được nhau, gia đình đoàn tụ. Chiều theo ý mọi người, Thúy Kiều nối lại duyên cũ với Kim Trọng nhưng cả hai cùng nguyện ước “Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy.”
III. Gía trị tác phẩm
* Giá trị nội dung, nghệ thuật của Truyện Kiều:
1. Giá trị nội dung:
a) Giá trị hiện thực:
a1) Truyện Kiều phản ánh bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị và thế lực hắc ám chà đạp lên quyền sống của con người.
* Bọn quan lại:
– Viên quan sử kiện vụ án Vương Ông vì tiền chứ không phải vì lẽ phải.
– Viên quan tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến là kẻ bất tài, nham hiểm, bỉ ổi và trâng tráo.
* Thế lực hắc ám:
– Mã Giám sinh, Tú Bà, Sở Khanh… là những kẻ táng tận lương tâm. Vì tiền chúng sẵn sàng chà đạp lên nhân phẩm và số phận con người lương thiện. Tác giả lên tiếng tố cáo bộ mặt bỉ ổi của chúng.
a2) Truyện Kiều phơi bày nỗi khổ đau của những con người bị áp bức, đặc biệt là người phụ nữ.
– Vương Ông bị mắc oan, cha con bị đánh đập dã man, gia đình tan nát.
– Đạm Tiên, Thúy Kiều là những người phụ nữ đẹp, tài năng vậy mà kẻ thì chết, người thì bị đày đọa lưu lạc suốt 15 năm. Truyện Kiều là tiếng kêu thương của những người lương thiện bị áp bức đày đọa.
b) Giá trị nhân đạo:
– Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du bộc lộ niềm thương cảm sâu sắc trước những đau khổ của con người. Ông xót thương cho Thúy Kiều – Một người con gái tài sắc mà phải lâm vào cảnh bị đọa đày “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”.
– Là tiếng nói ngợi ca những giá trị phẩm chất cao đẹp của con người như nhan sắc, tài hoa, trí dũng, lòng hiếu thảo, trái tim nhân hậu, vị tha…
– Ông còn tố cáo các thế lực tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống của những con người lương thiện, khiến họ khổ sở, điêu đứng. Phải là người giàu lòng yêu thương, biết trân trọng và đặt niềm tin vào con người Nguyễn Du mới sáng tạo nên Truyện Kiều với giá trị nhân đạo lớn lao như thế.
2) Giá trị nghệ thuật:
Truyện Kiều được coi là đỉnh cao nghệ thuật của Nguyễn Du.
– Về ngôn ngữ: Là ngôn ngữ văn học hết sức giàu và đẹp, đạt đến đỉnh cao ngôn ngữ nghệ thuật.
– Với Truyện Kiều, nghệ thuật tự sự đã có bước phát triển vượt bậc.
– Tiếng Việt trong Truyện Kiều không chỉ có chức năng biểu đạt, phản ánh, biểu cảm (bộc lộ cảm xúc) mà còn có chức năng thẩm mĩ (vẻ đẹp của ngôn từ).
+ Ngôn ngữ kể truyện có 3 hình thức: trực tiếp (lời tác giả), nửa trực tiếp (lời tác giả mang suy nghĩ, giọng điệu nhân vật). Nhân vật trong truyện xuất hiện cả với con người hành động và con người cảm nghĩ, có biểu hiện bên ngoài và thế giới bên trong sâu thầm.
+ Thành công ở thể loại tự sự, có nhiều cách tân sáng tạo, phát triển vượt bậc trong ngôn ngữ thơ và thể thơ truyền thống.
+ Về nghệ thuật xây dựng nhân vật: Khắc họa nhân vật theo phương thức tự sự, miêu tả chi tiết bằng vài nét chấm phá mỗi nhân vật trong Truyện Kiều hiện lên như một chân dung sống động. Cách xây dựng nhân vật chính diện thường được xây dựng theo lối lý thưởng hóa, được miêu tả bằng những biện pháp ước lệ, nhưng rất sinh động. Nhân vật phản diện của Nguyễn Du chủ yếu được khắc họa theo lối lý tưởng hóa, bằng bút pháp tả thực, cụ thể và rất hiện thực (Miêu tả qua ngoại hình, ngôn ngữ, hành động….. của nhân vật).
– Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên đa dạng, bên cạnh bức tranh thiên nhiên chân thực sinh động(cảnh ngày xuân), có những bức tranh tả cảnh ngụ tình đắc sắc (Kiều ở lầu Ngưng Bích)
B. Một số nội dung cụ thể:
I) Nghệ thuật miêu tả:
1) Nghệ thuật miêu tả người:
a) Nhân vật chính diện:
Câu 1:
Chép thuộc “Chị em Thúy Kiều”:
Đầu lòng hai ả Tố Nga
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân
Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm ai về mặc ai.
Câu 2: Vị trí đoạn trích
Vị trí đoạn trích “ Chị em Thuý Kiều” nằm ở phần mở đầu của phần thứ nhất: gặp gỡ và đính ước. Khi giới thiệu gia đình Thúy Kiều, tác giả tập chung miêu tả tài sắc hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều.
Câu 3 : Kết cấu đoạn trích: 4 phần
+ Bốn câu đầu: giới thiệu khái quát hai chị em Thúy Kiều.
+ Bốn câu tiếp: Gợi tả vẻ đẹp Thúy Vân
+ Mười hai câu còn lại: Gợi tả vẻ đẹp Thúy Kiều
+ Bốn câu cuối: Nhận xét chung về cuộc sống của hai chị em.
Câu 4: Giá trị nội dung và nghệ thuật:
– Giá trị nội dung “Chị em Thúy Kiều” là khắc họa rõ nét chân dung tuyệt mĩ của chị em Thúy Kiều, ca ngợi vẻ đẹp, tài năng và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh của Thúy Kiều là biểu hiện của cảm hứng nhân văn của Nguyễn Du.
– Giá trị nghệ thuật: Thúy Kiều, Thúy Vân và nhân vật chính diện, thuộc kiểu nhân vật lý tưởng trong Truyện Kiều. Để khắc họa vẻ đẹp của nhân vật lý tưởng, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước Lệ – Lấy vẻ đẹp của Thiên Nhiên làm nổi bật vẻ đẹp của con người. Nhà văn không miêu tả chi tiết cụ thể mà chủ yếu là để gợi tả. Sử dụng biện pháp đòn bẩy làm nổi bật
hình ảnh Thúy Kiều.
Câu 5: Giải nghĩa của từ ngữ:
– Tố Nga: chỉ người con gái đẹp.
– Mai cốt cách: Cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: Tinh thần của Tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
– Khuôn trăng dầy đặn: Gương mặt đầy đặn như trăng tròn, nét ngài nở nang: ý nói long mày hơi rậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Tiếng Việt có câu “Mắt phượng mày ngài”.
– Đoan trang: Nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về người phục nữ).
– Làn thu thủy: Làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp thanh tú như nét núi mùa xuân.
– Nghiêng nước nghiêng thành: Lấy ý ở một câu chữ hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt trần của người phụ nữ có thể làm cho ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
Câu 6:
Nguyễn Du đã miêu tả con người theo lối nghệ thuật mang tính ước lệ rất quen thuộc trong một kết cấu chặt chẽ, với ngòi bút tinh tế:
a, Bốn câu đầu: Giới thiệu khái quát về nhân vật.
Với bút pháp ước lệ, tác giả đã gợi được vẻ thanh cao duyên dáng, trong trắng của người thiếu nữ ở hai chị em Thúy Kiều: “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” cốt cách như mai, tinh thần như tuyết. Đó là vẻ đẹp hoàn hảo mang tính hình thể, tâm hồn cả hai đều đẹp ‘mười phân vẹn mười”nhưng mỗi người lại mang vẻ đẹp riêng.
b.bốn câu tiếp theo: miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân.
– Câu thơ mở đầu vừa giới thiệu Thúy Vân vừa khái quát vẻ đẹp của nhân vật, hai chữ
trang trọng gợi vẻ cao sang, quý phái
– Với cú pháp nghệ thuật ước lệ, vẻ đẹp của Vân được so sánh với những thứ cao đẹp
nhất trên đời, trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc. Bằng thủ pháp liệt kê chân dung Thúy Vân được miêu tả toàn vẹn từ khuôn mặt,nét mày,làn da,mái tóc nụ cười,giọng nói, phong thái ứng xử nghiêm trang,đúng đắn. Mỗi chi tiết được miêu tả cụ thể hơn nhờ bổ ngữ, định ngữ, hình ảnh so sánh ẩn dụ.
– Tác giả đã vẽ nên bức chân dung Thúy Vân bằng nghệ thuật so sánh ẩn dụ và ngôn ngữ thơ chọn lọc, chau chuốt : khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, tươi sáng như mặt trăng: lông mày sắc nét như con ngài; miệng cười tươi thắm như hoa; giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà ngọc; mái tóc đen óng ả hơn mây, làn da trắng mịn màng hơn tuyết(“khuôn trăng…nét ngài”)
– Chân dung Thúy Vân là chân dung mang tính cách số phận. Vân đẹp hơn những gì mỹ lệ nhất của thiên nhiên nhưng tạo sự hòa hợp êm đềm với xung quanh: mây thua, tuyết nhường. Thúy Vân hẳn có một tính cách ung dung, điềm đạm, một cuộc đời bình yên không sóng gió.
c. 12 Câu tiếp theo: Tả vẻ đẹp và tài hoa của Kiều.
– Câu thơ đầu đã khái quát đặc điểm của nhân vật;”Kiều càng sắc sảo mặn mà”. Nàng sắc sảo về trí tuệ và mặn mà về tâm hồn.
– Gợi vẻ đẹp của Kiều tác giả vẫn dùng những hình tượng ước lệ: thu thủy, xuân sơn, hoa liễu. Đặc biệt khi họa bức chân dung Kiều, tác giả tập trung gợi tả đôi mắt. Hình ảnh “làn thu thủy, nét xuân sơn” là hình ảnh mang tính ước lệ, đồng thời cũng là hình ảnh ẩn dụ, gợi lên đôi mắt trong sáng, long lanh, linh hoạt như làn nước mùa thu, đôi lông mày thanh tú như nét núi mùa xuân. Đôi mắt đó chính là cửa sổ tâm hồn, thể hiện phần tinh anh của tâm hồn, trí tuệ. Tả Kiều tác giả không tả cụ thể như khi tả Vân mà chỉ đặc tả đôi mắt theo lối điểm nhãn. Vẽ hồn cho nhân vật gợi lên một vẻ đẹp chung của một trang giai nhân tuyệt sắc. Vẻ đep ấy làm cho hoa ghen liễu hờn, nước nghiêng thành đổ. Nguyễn Du không miêu tả trực tiếp nhân vật mà miêu tả sự ghen ghét, đố kị hay ngưỡng mộ, say mê vẻ đep đó, cho thấy đây là vẻ đẹp có chiều sâu, có sức quyến rũ cuốn hút đến lạ lùng
– Vẻ đẹp tiềm ẩn phẩm chất bên trong cao quý, cái tài, cái tình đặc biệt của Kiều. Tả Thúy Vân tác giả chi tả nhan sắc, còn tả Kiều tác giả tả sắc một phần thì dành hai phần để tả tài. Kiều rất mưc thông minh và đa tài “thông minh vốn sẵn tính trời”. Tài của Kiều đạt đến mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mỹ phong kiến, hội đủ cầm, kì, thi họa”pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.”
– Tác giả đặc tả tài đàn: là sở trường là năng khiếu, nghề riềng của nàng “cung thương lầu bậc,ngũ âm,nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”không chỉ vậy nàng còn giỏi sáng tác nhạc. Cung đàn bạc mệnh của Kiều là tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm “ khúc nhà tay lựa nên chương, một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”
– Tả tài, Nguyễn Du thể hiện được cả cái tình của Thúy Kiều.
– Chân dung Thúy Kiều là bức chân dung mang tính cách số phận vẻ đẹp khi cho tạo hóa phải ghen ghét, các vẻ đẹp khác phải đố kị, tài hoa trí tuệ thiên bẩm, cả cái tâm hồn đa sầu đa cảm khiến Kiều không thể tránh khỏi định mệnh nghiệt ngã, số phận éo le, gian khổ bởi “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” “Trời xanh quen thói mai hồng đánh ghen”. Cuộc đời Kiều hẳn là cuộc đời hồng nhan bạc mệnh”.
* Có thể nói tác giả đã rất tinh tế khi miêu tả nhân vật Thuy Kiều: Tác giả miêu tả chân dung Thúy Vân trước để làm nổi bật chân dung Thúy Kiều, ca ngợi cả hai nhưng đậm nhạt khác nhau ở mỗi người; chỉ dành bốn câu thơ để tả Vân trong đó dành 12 câu thơ để tả Kiều, Vân thì tả nhan sắc, Kiều cả tài lẫn sắc. Đó chính là thủ pháp đòn bẩy.
d. Bốn câu cuối: nhận xét chung về cuộc sống hai chị em Kiều
– Họ sống phong lưu, khuôn phép, đức hạnh, theo đúng khuôn khổ của lễ giáo phong kiến. Tuy cả hai đều đã đến tuổi búi tóc cài trâm nhưng vẫn “trướng rủ màn che, tường đông ong bướm đi về mặc ai ”.
– Hai câu cuối trong sáng, đằm thắm như chở che, bao bọc hai chị em hai bông hoa vẫn còn phong nhụy trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che”
Tóm lại, đoạn trích đã thể hiện bút pháp miêu tả nhân vật đặc sắc của Nguyễn Du khắc họa nét riêng về nhan sắc, tài năng, tính cách, số phận nhân vật bằng bút pháp nghệ thuật cổ điển.
Câu 7 : Trong hai bức chân dung của Thúy Vân và Thúy Kiều, em thấy bức chân dung nào nổi bật hơn, vì sao?
– Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ để ca ngợi cả hai chị em, nhưng đậm nhạt khác nhau ở mỗi người, rõ ràng bức chân dung của Thúy Kiều nổi bật hơn.
Chân dung Thúy Vân |
Chân dung Thúy Kiều |
– Dùng 4 câu thơ để tả Vân – Với Vân chỉ tả ngoại hình theo cú pháp liệt kê. – Với Vân chỉ tả sắc. – Miêu tả chân dung Thúy Vân trước để làm nỏi bật chân dung Thúy Kiều |
– 12 Câu để tả Thúy Kiều – Đặc tả đôi mắt của Kiều bằng lối điểm nhãn vẽ hồn cho nhân vật, gợi nhiều hơn tả. – Với Kiều tả cả tài, sắc lẫn tâm. |
Tóm lại:
– Đặc tả vẻ đẹp của Thúy Vân,Nguyễn Du tập trung miêu tả các chi tiết trên khuôn mặt nàng bằng bút pháp ước lệ và nghệ thuật liệt kê Thúy Vân xinh đẹp thùy mị, đoan trang, phúc hậu và rất khiêm nhường
– Đặc tả Thúy Kiều, Nguyễn Du tập trung làm nổi bật vẻ đep của tài và sắc.
+ Tác giả miêu tả khái quát: sắc mặn mà
+ Đặc tả vẻ đẹp đôi mắt: vừa gợi vẻ đẹp hình thức, vừa gợi vẻ đẹp tâm hồn
+ Dùng điến cố “nghiêng nước nghiêng thành” diễn tả vẻ đẹp hoàn hảo có sức lôi cuốn mạnh mẽ.
+ Tài năng: phong phú đa dạng, đều đạt tới mức lí tưởng.
– Cái tài của Nguyễn Du biểu hiện ở chỗ miêu tả ngoại hình nhân vật làm hiện lên vẻ đẹp tính cách và tâm hồn và đằng sau những tín hiệu ngôn ngữ lại là dự báo về số phận nhân vật.
+ “thua, nhường” Thúy Vân có cuộc sống êm đềm, suôn sẻ
+ “hờn, ghen” Thúy Kiều bị thiên nhiên đố kị ganh ghét, số phận lòng đong, bị vùi dập.
Câu 8: Cảm hứng nhân đạo của tác giả Nguyễn Du thể hiện qua đoạn trích.
– Trong truyện Kiều, một trong những biểu hiện của cảm hứng nhân đạo là việc ca ngợi, đề cao những giá trị, phẩm chất của con người như nhan sắc, tài hoa, nhân phẩm, khát vọng, ý thức về than phận, nhân phẩm cá nhân.
– Một trong những ví dụ điển hình của cảm hứng nhân đạo ấy là đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”. Nguyễn Du sử dụng những hình ảnh đẹp nhất, những ngôn từ hoa mĩ nhất để miêu tả vẻ đẹp con người, phù hợp với cảm hứng ngưỡng mộ, ngợi ca giá trị con người. Tác giả còn dư cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh của Kiều. Đó chính là cảm hứng nhân văn cao cả của Nguyễn Du xuất phát từ lòng đồng cảm sâu sắc với mọi người.
Câu 9:
So sánh đoạn thơ “Chị em Thúy Kiều”với trích đoạn trong “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, ta càng thấy được sự sáng tạo tài tình của Nguyễn Du.
– Nếu như Thanh Tâm Tài Nhân kể về hai chị em Thúy Kiều bằng văn xuôi thì Nguyễn Du miêu tả họ bằng thơ lục bát.
– Thanh Tâm Tài Nhân chủ yếu là kể về hai chị em Kiều còn Nguyễn Du thì thiên về gợi tả sắc đẹp Thúy Vân, tài sắc Thúy Kiều.
– Thanh Tâm Tài Nhân tả Kiều trước,Vân sau:”Thúy Kiều mày nhỏ mà dài, mắt trong mà sang, mạo như trăng thu, sắc tựa hoa đào. Còn Thúy Vân thì tinh thần tĩnh chính, dung mạo đoan trang, có một phong thái riêng khó mô tả”. Đọc lên ta cảm giác như tác giả tập trung vào Vân hơn,hình ảnh của Vân nổi bật hơn. Ngay ở đoạn giới thiệu đầu truyện, hình ảnh Kiều cũng không thật sự nổi bật. Còn Nguyễn Du tả Vân trước làm nền tô đậm thêm vẻ đẹp của Kiều theo thủ pháp nghệ thuật đòn bẩy.
– Khi miêu tả, Nguyễn Du đặc biệt chú trọng đến tài năng của Kiều, qua việc miêu tả ngoại hình, tài hoa còn thể hiện được tấm lòng, tính cách và dự báo được số phận nhân vật, Thanh Tâm Tài Nhân không làm được điều đó, bút pháp cá thể hóa nhân vật của ông không rõ nét bằng của Nguyễn Du.
– Những sự khác biệt này đã giải thích vì sao cùng một cốt truyện mà “Kim Vân Kiều truyện” chỉ là cuốn sách bình thường, vô danh còn “Truyện Kiều” được coi là một kiệt tác, Thanh Tâm Tài Nhân chỉ là tác giả không có danh tiếng, ít người biết đến trong khi Nguyễn Du là một tác giả lớn, một đại thi hào.
b, Nhân vật phản diện(Mã Giám Sinh)
2. Nghệ thuật tả cảnh
a, Tả cảnh thiên nhiên
Câu 1
Chép thuộc “cảnh ngày xuân”
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Câu 2
Vị trí: “cảnh ngày xuân”là đoạn thơ tả cảnh ngày xuân trong tiết Thanh minh và cảnh du xuân của chị em Kiều, nằm sau đoạn tả tài sắc hai chị em Kiều, trước đoạn Kiều gặp nấm mộ Đạm Tiên và Kim Trọng. Đoạn trích là bức tranh thiên nhiên, lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng náo nhiệt
Câu 3: Kết cấu đoạn trích : theo trình tự thời gian của cuộc du xuân.
+ Bốn câu đầu: Khung cảnh ngày xuân
+ Tám câu tiếp: khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh
+ Sáu câu cuối: Cảnh chị em Kiều du xuân trở về
Câu 4: Khái quát giá trị nội dung và ngệ thuật.
– Giá trị nội dung của “ Cảnh ngày xuân”: Là bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, trong sáng và lễ hội mùa xuân tưng bừng náo nhiệt.
– Giá trị nghệ thuật: Sử dụng nhiều hình ảnh đắt giá và sáng tạo: Nhiều từ láy miêu tả cảnh vật và cũng là tâm trạng con người: Bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình
Câu 5: Giải nghĩa từ ngữ
– Thanh minh : tiết vào đầu tháng ba, mùa xuân khí trời mát mẻ, trong trẻo, người ta đi tảo mộ, tức là viếng và sửa sang lại phần mộ người thân
– Đạp thanh: Dẫm lên cỏ xanh
– Tài tử giai nhân: Trai tài, gái sắc
– Áo quần như nêm: Nói người đi lại đông đúc, chật như nêm
Câu 6 : Thành công trong nghệ thuật miêu tả thiên nhiên
a) Bốn câu thơ đầu: Tác giả miêu tả cảnh vật với vẻ đẹp riêng của mùa xuân.
– Hai câu đầu là hình ảnh khái quát về một ngày xuân tươi đẹp với hình ảnh én chao liệng trên bầu trời thanh bình tràn ngập ánh xuân tươi tắn trong sáng. Đồng thời, nhà thơ cũng ngỏ ý ngày xuân qua nhanh quá như “con én đưa thoi” chín mươi ngày xuân mà nay đã ngoài sáu mươi.
– Hai câu thơ tiếp theo mới thực là bức tranh tuyệt mỹ “Cỏ non xanh tận chân trời – Cành lê trắng điểm một vài bông hoa” đây chỉ la chân dung của ngày xuân,chỉ giản đơn có cỏ xanh, hoa trắng mà đủ cảnh đủ màu, làm hiện lên cả một không gian mùa xuân thoáng đạt. Ở đây Nguyễn Du học hai câu thơ cổ Trung Quốc “Phương thảo liên thiên bích – Lê chi sổ điểm hoa” dùng hình ảnh cỏ thơm (Phương thảo) thiên về mùi vị thì Nguyễn Du thay bằng “cỏ xanh” thiên về màu sắc. Đó là màu xanh nhạt pha với màu vàng chanh tươi tắn hợp màu lam trong sáng của nền trời buổi chiều xuân làm thành gam nên cho bức tranh, trên đó điểm xuyết những đốm trắng của hoa lê. Bức tranh dung hòa những sắc độ lạnh mà bên trong vẫn rạo rực sức sống tươi mới của mùa xuân. Chữ “trắng” đảo lên trước tạo bất ngờ sự mới mẻ tinh khôi, thanh khiết như kết tinh những tinh hoa của trời đất. Chữ “điểm” gợi bàn tay người họa sỹ vẽ nên thơ nên họa, bàn tay tạo hóa tô điểm cho cảnh mùa xuân, làm cho bức tranh trở nên có hồn, sống động.
– Hai câu thơ tả cảnh thiên nhiên của Nguyễn Du quả là tuyệt bút! Ngòi bút của Nguyễn Du tài hoa, giàu chất tạo hình ngôn ngữ biểu cảm gợi tả. Tác giả đã rất thanh công trong nghệ thuật kết họp giữa tả và gợi. Qua đó ta thấy tâm hồn con người tươi vui, phấn chấn qua cái nhìn thiên nhiên trong trẻo, tươi tắn, hồn nhiên, nhạy cảm tha thiết với vẻ đẹp thiên nhiên.
b) Sáu câu thơ cuối: gợi tả khung cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về
– Cảnh mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân: Nắng nhạt, khe nước nhỏ, một nhịp cầu bắc ngang nhưng đã nhuốm màu tâm trạng.
+ Nghệ thuật: sử dụng nhiều từ láy như nao nao, tà tà, thanh thanh không chỉ biểu đạt sắc thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Đặc biệt hai chữ “nao nao”thoáng gợi nên một nét buồn khó hiểu. Hai chữ “thơ thẩn” có sức gợi rất lớn, chị em Kiều về trong sự bần thần, nuối tiếc và lắng buồn. “Dan tay” tưởng là vui nhưng thực là chia sẻ nỗi buồn không nói hết. Cảm giác bâng khuâng xao xuyến về một ngày vui xuân đã hé mở một vẻ đẹp tâm hồn thiếu nữ tha thiết với niềm vui cuộc sống, nhạy cảm và sâu lắng. Chính các từ này đã nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật.
Đoạn thơ còn hay hơn bởi đã sử dụng bút pháp cổ điển: Tả cảnh gắn với tả tình, tả cảnh ngụ tình, tình và cảnh tương hợp.
Tóm laị
– Đoạn 4 câu đầu và 6 câu cuối bài “Cảnh ngày xuân”, Nguyễn Du đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, nhà thơ điểm vài chi tiết, tả cảnh để gợi là chính.
– Từ ngữ hình ảnh giàu chất tạo hình. Thiên nhiên được miêu tả trong những thời gian, thời điểm khác nhau
Câu 7: Cảm nhận về khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh (8 câu giữa)
– Nguyễn Du đã rất tài tình khi tách hai từ lễ hội ra làm đôi để gợi tả hai hoạt động diễn ra cùng một lúc: Lễ tảo mộ, hội đạp thanh
– Không khí lễ hội được gợi tả từ một hệ thống từ ngữ nhiều sắc thái biểu cảm
+ Đoạn thơ sử dụng nhiều tính từ (nô nức, gần xa, ngổn ngang) làm rõ hơn tâm trạng người đi hội
+ Nhiều danh từ ghép (yến anh, tài tử, giai nhân, chị em, ngựa xe, áo quần) gơi tả sự đông vui tấp nập
+ Và nhiều động từ (sắm sửa, dập dìu) gợi được sự rộn ràng của ngày hội
– Thông qua buổi du xuân của chị em Thúy Kiều,tác giả khắc họa hình ảnh một truyền thống văn hóa lễ hội xa xưa. Cụm từ “ô nức yến anh” là một ẩn dụ gợi lên hình ảnh từng đoàn nam thanh nữ tú nô nức đi chơi xuân như những đàn chim én, chim oanh bay ríu rít. Trong lễ hội mùa xuân náo nhiệt nổi bật những nam thanh, nữ tú, những tài tử giai nhân” tay trong tay dạo chơi, niềm vui lễ hội như bao trùm cả nhân gian. Những so sanh rất giản dị “ngựa xe như
nước, áo quần như nêm” gợi tả sự đông vui.
– “Lễ là tảo mộ”- lễ thăm viếng, sửa sang, quét tước phần mộ người thân: Đốt vàng vó, sắc tiền giấy để tưởng nhớ những người đã khuất. “hội là đạp thanh”- vui chơi chốn đồng quê, đạp lên những thảm cỏ xanh, là cuôc sống hiện tại và có thể tìm đến những sợi tơ hồng của mai sau”. “Lễ” là hồi ức tưởng niệm quá khứ theo truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “hội” là khát khao và hoài vọng nhìn về phía trước của cuộc đời. Lễ và hội trong tiết thanh minh là một sự giao hòa độc đáo, chứng tỏ nhà thơ rất yêu quý,trân trọng vẻ đẹp và giá trị truyền thống văn hóa dân tộc.
b) Tả cảnh ngụ tình
Câu 1:
Chép thuộc “Kiều ở lầu Ngưng Bích”
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Buồn trông cửa biển chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Câu 2:
Vị trí đoạn trích : Đoạn trích nằm ở phần thứ hai Gia biến và lưu lạc. Sau khi bi Mã Giám Sinh lừa gạt, làm nhục, bị tú bà mắng nhiếc, Kiều nhất quyết không chịu tiếp khách làng chơi, không chịu chấp nhận cuộc sống lầu xanh. Đau đớn, phẫn uất,tủi nhục nàng định tự vẫn. Tú bà sợ mất vốn bèn lựa lời khuyên giải, dụ dỗ Kiều. Mụ vờ chăm sóc thuốc thang, hứa hẹn khi nàng bình phục sẽ gả nàng cho người tử tế, Tú Bà đưa Kiều ra sống riêng ở lâu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng nàng để thực hiện âm mưu mới đê tiện hơn, tàn bạo hơn.
Câu 3 : Kết cấu đoạn trích : 3 phần
+ Sáu câu đầu: Hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của kiều.
+ Tám câu tiếp: Nỗi thương nhớ Kim Trọng và thương nhớ cha mẹ nàng.
+ Tám câu cuối: Tâm trạng đau buồn, âu lo của kiều thể hiện qua cách nhìn cảnh vật.
Câu 4: Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích :
+ Giá trị nội dung “Kiều ở lầu Ngưng Bích”: miêu tả chân thực cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi đáng thương, nỗi nhớ người thân da diết và tấm lòng thủy chung,hiếu thảo vị tha của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.
+ Giá trị nghệ thuật: Nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc, bút pháp tả cảnh ngụ tình hay nhất trong “Truyện Kiều”.
Câu 5 : Giải nghĩa từ ngữ :
– Khoá xuân: khóa kín tuổi xuân, y nói cấm cung (con gái nhà quyền quý ngày xưa không được ra khỏi phòng): ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng. Tấm son :tấm lòng son,chỉ tấm long thủy chung gắn bó.
– Duyềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Câu 6 : Hoàn cảnh và tâm trạng của Kiều thể hiện qua sáu câu thơ đầu :
– Kiều ở lầu Ngưng Bích thực chất là bị giam lỏng. (khóa xuân).
– Nàng trơ trọi giữa một không gian mênh mông, hoang vắng : “bốn bề bát ngát xa trông” Cảnh “non xa” “trăng gần” gợi hình ảnh Lầu Ngưng Bích đơn độc, chơi vơi giữa mênh mông nơi nước. Từ trên lầu cao nhìn ra những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. Cái lầu trơ trọi ấy giam thân phận trơ trọi, không một bóng hình thân thuộc bầu bạn, không cả bóng người. “cát vàng”, “bụi hồng” có thể là cảnh thật mà cũng có thể là hình ảnh mang tính ước lệ để gợi sự mênh mông, rơn ngợp cuả không gian, qua đó diễn tả tâm trạng cô đơn của Kiều.
– Cụm từ “ mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn, khép kín. Tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi cô đơn khiến Kiều càng bẽ bàng, chán ngán, buồn tủi (“bẽ bàng mây sớm đèn khuya”) sớm và khuya, ngày và đêm. Kiều “thui thủi quê người một thân” và dồn tới lớp lớp những nỗi niềm chua xót đau thương khiến tấm lòng Kiều như bị chia sẻ: “nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”.Vì vậy, dù cảnh có đẹp đến mấy, tâm trạng của Kiều vẫn không thể vui được.
Câu 7:
* Tâm trạng nhớ thương Kim Trọng và thương nhớ cha mẹ của Kiều qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm :
– Kiều nhớ Kim Trọng trước nhớ cha mẹ sau.Theo nhiều nhà hủ nho thì như vậy là không đúng với truyền thống dân tộc,nhưng thật ra lại là rất hợp lý. Kiều bán mình cứu cha mẹ và em là đã đền đáp được một phần công lao cha mẹ, nên nàng đỡ bứt rứt, còn với Kim Trọng, Kiều thấy mình như một kẻ phụ tình, phụ tấm lòng người yêu, nên càng cắn rứt khôn nguôi.
– Cùng là nỗi nhớ nhưng cách nhớ khác nhau với những lí do khác nhau nên cách thể hiện cũng khác nhau :
+ Nhớ Kim Trọng : Kiều “tưởng” như thấy lại kỉ niệm thiêng liêng đêm thề nguyền đính ước “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng”.Cái đêm ấy hình như mới ngày hôm qua. Một lần khác nàng nhớ về Kim Trọng cũng là “Nhớ lời nguyện ước ba sinh”. Kiều xót xa hình dung người yêu vẫn chưa biết tin nàng bán mình,vẫn ngày đêm mòn mỏi chờ trông chốn Liêu Dương xa xôi, Nàng nhớ người yêu với tâm trạng đau đớn : “Tấm son gọt rửa bao giờ cho phai”, có lẽ “tấm son” ấy là tấm lòng Kiều son sắc thủy chung,không nguôi nhớ thương Kim Trọng, Cũng có thể Kiều đang tủi nhục khi tấm lòng son đã bị dập vùi, hoen ố, không biêt đến bao giờ mới gột rửa cho được. Trong nỗi nhớ chàng Kim có cả nỗi đau đớn vò xé tâm can.
+ Nhớ cha mẹ: nàng thấy “xót” khi tưởng tượng, ở chốn quê nhà, cha mẹ nàng vẫn tựa cửa ngóng chờ tin tức người con gái yêu. Nàng xót thương da diết và day dứt khôn nguôi vì không thể “quạt nồng ấp lạnh”, phụng dưỡng song thân, băn khoan không biết hai em có chăm sóc cha mẹ chu đáo không. Nàng tưởng tượng nơi quê nhà tất cả đã đổi thay, gốc tử đã vừa người ôm, cha mẹ ngày thêm gia yếu. Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vừa cho thấy sự xa cách bao mùa mưa nắng, vừa gợi được sự tàn phá của thời gian, của thiên nhiên lên con người và cảnh vật. Lần nào nhớ về cha mẹ, Kiều cũng “ nhớ ơn chín chữ cao sâu” và luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dạy của cha mẹ. Nỗi nhớ thương của Kiều đã nói lên nhân cách đáng trân trọng của nàng. Hoàn cảnh của nàng lúc này thật xót xa đau đớn. Nhưng quên đi cảnh ngộ của bản thân, nàng đã hướng yêu thương vào những người thân yêu nhất.Trái tim nàng thật giàu yêu thương giàu đức hi sinh. Nàng thật sự là một người tình thủy chung, một người con hiếu thảo, một ngươi có tấm lòng vị tha cao cả đáng quý
Câu 8: Bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du trong 8 câu cuối “Kiều ở lầu Ngưng Bích”
– Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình;
– Đoạn thơ này được xem là kiểu mẫu của lối thơ tả cảnh ngụ tình trong văn chương cổ điển. Để diễn tả tâm trạng Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình” tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này” để khắc họa tâm trạng của Kiều lúc bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.
– Đây là 8 câu thơ thực cảnh mà cũng là tâm cảnh. Mỗi biểu hiện của cảnh đồng thời là một ẩn dụ về tâm trạng con người – mỗi một cảnh lại khơi gợi ở Kiều những nỗi buồn khác nhau, với những lí do buồn khác nhau trong khi nỗi buồn đã đầy ắp tâm trạng để rồi tình buồn lại tác động vào cảnh, khiến cảnh mỗi lúc lại buồn hơn, nỗi buồn mỗi lúc một ghê gớm, mãnh liệt hơn.
– Cách sử dụng ngôn ngữ độc thoại, điệp ngữ. Bốn bức tranh, bốn nỗi buồn đều được tác giả khắc họa qua điệp từ “buồn trông” đứng đầu mỗi câu có nghĩa là buồn mà trông ra bốn phía, trông ngóng một cái gì mơ hồ sẽ đến làm thay đổi hiện tại, nhưng trông mà vô vọng “Buồn trông” có cái thảng thốt lo âu, có cái xa lạ hút tầm nhìn, có cả dự cảm hãi hùng của người con gái ngây thơ lần đầu lạc bước giữa cuộc đời ngang ngược. Điệp ngữ”buồn trông” kết hợp với các hình ảnh đứng sau đã diễn tả nỗi buồn với nhiều sắc độ khác nhau. Điệp ngữ lại được kết hợp với các từ láy chủ yếu là những từ láy tượng hình, dồn dập, chỉ có một từ láy tượng thanh ở câu cuối tạo nên nhịp điệu, diễn tả nỗi buồn ngày một tăng, dâng lên lớp lớp, nỗi buồn vô vọng, vô tận. Điệp ngữ tạo âm hưởng trầm buồn, trở thành điệp khúc của đoạn thơ cũng là điệp khúc của tâm trạng.
– Cảnh 1:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
+ Một cánh buồm thấp thoáng nơi cửa biển là một hình ảnh rất đắt để thể hiện nội tâm nàng Kiều. Một cánh buồm nhỏ nhoi,đơn đôc giữa biển nước mênh mông trong ánh sang le lói cuối cùng của mặt trời sắp tắt, cũng như Kiều trong không gian vắng lặng của hiện tại nhìn về phương xa với nỗi buồn nhớ da diết về gia đình, quê hương. Con thuyền gần như mất hút, vẫn lênh đênh trên mặt biển khi mà những con thuyền khác đều đã cập bến, biết bao giờ mới tìm được bến neo đậu, cũng như Kiều còn lênh đênh giữa dòng đời, biết bao giờ mới được trở về sum họp, đoàn tụ với những người thân yêu.
– Cảnh 2:
Buồn trông ngọn nước mới ra
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
+ Những cánh hoa tàn lui trôi man mác trên ngọn nước mới xa khi Kiều càng buồn hơn bởi nàng như nhìn thấy trong đó thân phận mình lênh đênh, vô định, ba chìm bảy nổi giữa song nước. Cuộc đời không biết rồi sẽ trôi dạt đi đâu, sẽ bị dập vùi ra sao.
– Cảnh 3:
Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
+ Nơi cỏ “rầu rầu”, “xanh xanh”, “sắc xanh héo úa”, mù mịt, nhạt nhòa trải dài từ chân mây đến mặt đất, còn đâu cái” xanh tận chân trời” như sắc cỏ trong tiết Thanh minh khi Kiều còn trong cảnh đầm ấm.Màu xanh này gợi cho Kiều một nỗi chán ngán,vô vọng vì sống cuộc sống cô quạnh và những chuỗi ngày vô vị,tẻ nhạt không biết kéo dài đến bao giờ.
– Cảnh 4:
Buồn trông gió cuốn mặt duyềnh.
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
+ Dường như nỗi buồn càng lúc càng tăng,càng dồn dập.Một cơn ”gió cuốn mặt duyềnh” làm cho tiếng sóng bỗng nổi lên ầm ầm như vây quanh ghế Kiều ngồi. Cái âm thanh “ầm ầm tiếng sóng” ấy chính là âm thanh dữ dội của cuộc đời phong ba bão táp đã, đang ập đổ xuống đời nàng và còn tiếp tục đè nặng lên kiếp người nhỏ bé ấy trong xã hội phong kiến cổ hủ, bất công. Tất cả là đợt sóng đang gầm thét, rít gào trong lòng nàng. Lúc này Kiều không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi như rơi vào vực thẳm một cách bất lực. Nỗi buồn ấy đã dâng đến tột đỉnh, khiến Kiều thực sự tuyệt vọng. Thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng cũng rất ảo. Đó là cảnh được nhìn qua tâm trạng theo qui luật”. Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu – Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
– Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động để diễn đạt nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến bão táp nội tâm cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều. Tất cả là hình ảnh về sự vô định, sự mong manh, sự dạt trôi bế tắc,sự chao đảo nghiêng đổ dữ dội. Lúc này Kiều trở nên tuyệt vọng,yếu đuối nhất. Cũng vì thế mà nàng đã mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời ”thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”.
Tóm lại:
Cảnh thiên nhiên là cái cớ để tác giả bộc lộ cảm xúc của mình.
(Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” – Truyện Kiều).