Tổng hợp Bộ đề Trả lời câu hỏi bài Cũng cờ cũng biển cũng cân đai đọc hiểu hay nhất. Tuyển tập, sưu tầm các đề Trả lời câu hỏi bài Cũng cờ cũng biển cũng cân đai đọc hiểu đầy đủ nhất giúp bạn đọc hiểu nội dung bài nhanh nhất.

Trả lời câu hỏi bài Cũng cờ cũng biển cũng cân đai đọc hiểu – Đề số 1

Đọc văn bản và trả lời câu hỏi:

Tiến sĩ giấy 

Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai 

Cũng gọi ông nghè có kém ai 

Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng, 

Nét son điểm rõ mặt văn khôi. 

Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ, 

Cái giá khoa danh ấy mới hời. 

Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe, 

Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi. 

( Nguyễn Khuyến)

Câu 1: Bài thơ trên được viết theo thể loại nào?

Câu 2: Chỉ ra nội dung của bài thơ

Câu 3: Chỉ ra và phân tích hiệu quả của biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu thơ sau: “Cờ đương dở cuộc không còn nước/ Bạc chửa thâu canh đã chạy làng”

Câu 4: Qua bài thơ, anh/ chị cảm nhận được điều gì về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Khuyến.

Trả lời

Câu 1: Thất ngôn bát cú đường luật

Câu 2: Nguyễn Khuyến đã mượn hình ảnh đồ chơi để nói về thời cuộc. Đội ngũ tiến sĩ lúc này như chia làm hai loại. Hạng thứ nhất, có tài chữ nghĩa thực sự, nhờ chính tài năng của mình mà đỗ đạt. Nhưng họ là là những con người có lòng tự trọng dân tộc. Khi nhận thấy bản thân không xoay chuyển được tình thế bằng sức lực của mình nên họ buồn chán, quay về ở ẩn lánh đời. Hạng thứ hai, đỗ đạt nhờ đồng tiền. Đó là những kẻ bất tài nhưng lại tìm mọi cách để làm quan, để vơ vét của cải, để hưởng vinh hoa phú quý.

Câu 3: Biện pháp ẩn dụ . Lấy thế cờ để chỉ thế sự quốc gia. Từ đó cụ thể hóa lên thực trạng đáng buồn của triều đình, nước đi này đã chẳng thể có đường lui nên vận nước xem như đến hồi đã tận. “Đã chạy lang” là lời tự trách của tác giả, khi đã về ở ẩn bỏ lại thế sự, bỏ lại công vụ và trách nhiệm với nhân dân

Câu 4: Nguyễn Khuyết từng là một nhà nho từng bao năm dùi mài kinh sử, từng ôm mộng khoa danh để phò vua giúp đời. Nhưng từ khi nhận thấy bản chất rẻ rúng đồi bại và xảo trá nơi thi cử quan trường của những kẻ bá nhơ mua danh bán tước, thì ông đã thật sự ngán ngẩm, đấy là sự ngán ngẩm của một nhà nho có lòng tự trọng đã nhận ra và thấm thía nỗi chua xót của một trí thức bất lực trước thời cuộc. Một nhân cách đẹp, một lý tưởng đẹp và cũng là một nhà nho lỗi lạc, thấu đời.

Trả lời câu hỏi bài Cũng cờ cũng biển cũng cân đai đọc hiểu – Đề số 2

Đọc bài thơ sau và trả lời câu hỏi:

Tiến sĩ giấy

Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,

Cũng gọi ông nghè có kém ai.

Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,

Nét son điểm rõ mặt văn khôi.

Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,

Cái giá khoa danh ấy mới hời.

Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe,

Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi.

( Nguyễn Khuyến)

Câu 1. Bài thơ trích dẫn trên có nhan đề là gì? Tác giả của bài thơ là ai?

Câu 2. Anh/ chị hãy giới thiệu đôi nét về tác giả và hoàn cảnh ra đời của bài thơ trên.

Câu 3. Anh/ chị hiểu thế nào về các hình ảnh thơ mảnh giấy – thân giáp bảng, nét son – mặt văn khôi? Tác giả muốn khẳng định điều gì thông qua hai hình ảnh thơ trên?

Câu 4. Các cụm từ sao mà nhẹ, ấy mới hời có tác dụng gì trong việc biểu hiện nội dung bài thơ?

Trả lời

Câu 1. Bài thơ trên có nhan đề Tiến sĩ giấy của tác giả Nguyễn Khuyến.

Câu 2.

*Tác giả Nguyễn Khuyến.

– Cuộc đời:

+ Nguyễn Khuyến (1835 – 1909), hiệu là Quế Sơn, lúc nhỏ tên Nguyễn Thắng.

+ Quê quán: sinh ở quê ngoại, xã Hoàng Xá, Ý Yên, Nam Định. Sống chủ yếu ở quê nội: làng Và, Yên Đổ, Bình Lục, Hà Nam.

– Từng thi đỗ đầu trong cả ba kì thi nên được gọi Tam Nguyên Yên Đổ, ông chỉ làm quan hơn 10 năm, thời gian còn lại dạy học ở quê nhà.

– Là người có tài năng, cốt cách thanh cao, có tấm lòng yêu nước thương dân, một mực không hợp tác với kẻ thù.

– Sự nghiệp:

+ Sáng tác của Nguyễn Khuyến bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm, hiện còn trên 800 bài (chủ yếu là thơ).

+ Nội dung:

++ Tình yêu quê hương, đất nước, gia đình, bạn bè.

++ Cuộc sống của người nông dân khổ cực, chất phác.

++ Châm biếm, đả kích thực dân xâm lược, bọn tay sai.

=> Đóng góp nổi bật nhất ở mảng thơ Nôm với hai đề tài: thơ viết về làng quê và thơ trào phúng.

Ông được mệnh danh là “Nhà thơ của dân tình, làng cảnh Việt Nam”.

* Hoàn cảnh sáng tác bài thơ:

Bài thơ viết vào cuối thế kỉ XIX, dưới chế độ thực dân phong kiến, chế độ khoa cử ngày càng xuống cấp, suy tàn. Người có tài không được trọng dụng, kẻ tầm thường lại có thể dùng tiền mua quan bán tước.

Câu 3:

+ Mảnh giấy – thân giáp bảng:  Thân giáp bảng danh giá, uy nghi hóa ra chỉ được cắt dán, chắp vá từ những mảnh giấy vụn, giấy bỏ.

+ Nét son – mặt văn khôi: mặt văn khôi quý hiển, rạng rỡ hóa ra lại được bôi quyệt, sơn vẽ từ vài nét son xanh đỏ.

=>Từ đây, tác giả đã khẳng định tính chất rẻ mạt, vô nghĩa của danh hiệu tiến sĩ trong hoàn cảnh đương thời.

Câu 4:

– Hai cụm từ “sao mà nhẹ”, “ấy mới hời” đã khẳng định giá trị rẻ mạt của ông nghè khi mang ra để cân đong đo đếm.

– Hai cụm từ cũng thể hiện thái độ châm biếm, nỗi đau xót khôn cùng của nhà thơ bởi thần tượng của cả một thể chế xã hội từng được vinh danh suốt mấy trăm năm bỗng chốc bị lật nhào, đổ vỡ tan tành.

Cùng Top tài liệu tìm hiểu thêm một số Bài văn phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy nhé.

Phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy – Mẫu số 1

Trả lời câu hỏi bài Cũng cờ cũng biển cũng cân đai đọc hiểu

Được mệnh danh là nhà thơ của danh lam thắng cảnh quê hương Việt Nam, Nguyễn Khuyến đã miêu tả
cuộc sống nông thôn bằng ngòi bút giản dị và ấm áp. Tuy nhiên, những bài thơ của ông cũng gửi gắm
lòng yêu nước và nỗi nhớ nhung trước sự đổi thay của thời cuộc. Vào thế kỷ XIX, với những khủng hoảng
về tư tưởng và kinh tế, nhà thơ không khỏi cảm thấy bất lực. “Tiến sĩ Giấy” là bài thơ trào phúng thể hiện
cái nhìn mỉa mai, châm biếm của Tam nguyên Yên Đổ đối với những con người mang tiếng nho học mà
không có thực chất, đồng thời cũng mang một chút tủi thân của tác giả.
Nhan đề của bài thơ “Tiến sĩ giấy” nhằm gợi tả một nét đẹp văn hóa của dân tộc ta. Đó là hình nộm bằng
giấy cho trẻ em chơi trung thu, giả làm bác sĩ để khơi dậy lòng ham học hỏi, ý thức của trẻ về con đường
học vấn. Tuy nhiên, trong văn bản, “giấy” không chỉ đề cập đến vật chất mà còn khiến người đọc liên
tưởng đến tính chất phù phiếm. Vì vậy, khi đặt tên tác phẩm là “Tiến sĩ giấy”, Nguyễn Khuyến đã khéo léo
ngụ ý phê phán sự phù phiếm của tiến sĩ trong thời đại Hán học ngày càng suy tàn, Tây học ngày càng lấn
lướt.

Mở đầu bài thơ, hình ảnh ông tiến sĩ giấy hiện lên với những nét khái quát nhất:

“Cùng một ngọn cờ, cùng một biển, cùng một trọng lượng

Cũng gọi anh ấy tội nghiệp ”.

Đối tượng Nguyễn Khuyến tả là có “cờ”, “biển” – tấm biển gỗ in dòng chữ “vinh quy bái tổ”, “đai cân” –
khăn cài tóc đội mũ, thắt lưng đeo thắt lưng. . Tất cả những điều này tạo nên trang phục của các quan lớn,
quý tộc trong thời kỳ phong kiến. Tuy nhiên, sự ám chỉ “cũng” được lặp lại bốn lần ở đầu mỗi dòng khiến
người đọc không khỏi nghi ngờ về bản chất của sự vật. Tuy giống nhưng đó không phải là bác sĩ thật, hóa
ra chỉ là bác sĩ làm bằng giấy để tạo đồ chơi cho trẻ em. Bài thơ vì thế mang hơi hướng mỉa mai, mỉa mai
của tác giả.

Đến hai câu thực, hình dáng của ông tiến sĩ giấy được khắc họa rõ nét hơn:

“Mảnh giấy làm áo giáp

Màu son làm nổi bật gương mặt điển trai ”.

Ông tiến sĩ giấy ấy chỉ cần vài mẩu giấy để tạo hình, chỉ cần vài nét son là đủ để tạo nên khuôn mặt của
một vị lãnh tụ của làng văn. Tuy nhiên, cái nghĩa của Nguyễn Khuyến không dừng lại ở đó, câu thơ ẩn sâu
trong nghĩa đen là nghĩa ẩn dụ. Để trở thành một bác sĩ dễ dàng như vậy, với một cái tên danh giá, chỉ cần
một vài “mẩu giấy” (tiền giấy) là có thể làm được? Vì vậy, đến hai câu thực, nhà thơ đã trực tiếp bộc lộ cảm
xúc của mình:

“Thân áo sao nhẹ vậy?

Giá uy tín đó là một món hời ”.

Để trở thành một danh y, phải đổ bao nhiêu giọt mồ hôi trên trang sách, bao nhiêu ngày tháng miệt mài
dùi mài kinh sử, vậy mà giờ đây, “tấm áo mỏng manh”. Hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ với những biến
động theo chiều hướng tuyển chọn nhân tài, hủ tục mua bán chức tước diễn ra phổ biến, dẫn đến việc
xuất hiện những người chỉ có danh mà không có học. Kết quả là những người có tài năng thực sự đỗ đạt
bằng chính năng lực của mình cũng chỉ cao bằng những người có “tiến sĩ giấy”. Chính vì vậy, giọng điệu
của hai dòng thơ, nhất là “giá mà thanh tân” nghe chua xót, có chút tủi thân của nhà thơ. Tác giả như vừa
châm biếm vừa châm biếm hiện thực xã hội, cười người nhưng rồi lại cười mình, thấy thương cho mình và
cho cả đất nước.

Tiếng cười ở hai câu thực tuy chua chát nhưng phải đến hai dòng cuối thì tính chất trào phúng của bài thơ mới thực sự lên đến đỉnh điểm, nó phá bỏ cái thật và giả ở những câu thơ trước: 

“Ghế ô xanh đẹp

Cứ ngỡ đồ thật biến thành đồ chơi ”.

Ông tiến sĩ giấy xuất hiện với hành động “ngồi tuềnh toàng” gợi lên dáng vẻ uy nghiêm và cách ăn mặc
đặc trưng, kết hợp với “chiếc ghế chéo” và “chiếc lọng xanh” uy nghi. Ta có thể cảm nhận được thái độ đả
kích của tác giả đối với những kẻ mua bán chức vụ bằng tiền, không những thế, những kẻ đó còn thích thể
hiện. Tất cả khiến anh trở nên ghê tởm, đáng khinh bỉ. Sau đó, kết bài thơ, anh trực tiếp bày tỏ ý kiến của
mình: “tưởng rằng đồ thật biến thành đồ chơi”. Tưởng là thật nhưng vỡ lẽ ra đó chỉ là một món đồ chơi
bằng giấy, cái kết khiến nhiều độc giả bất ngờ, nhưng xét về khía cạnh tự nhiên thì nó hoàn toàn hợp lý.
Nhà thơ dường như đang khắc họa bản chất trống rỗng, chỉ có cái tên mà không có những nghiên cứu
thực tế về những người đàn ông thực sự trong cuộc sống. Là người trong cuộc, nhìn thấy bộ mặt thật của
toàn xã hội bấy giờ, những kẻ có tên nhưng không thật ngày càng được đề cao, Nguyễn Khuyến chỉ biết
bất lực mỉa mai, xót xa cho chính mình:

“Anh nghĩ em cũng xấu à?

Vì vậy, bia xanh cũng bảng vàng ”.

Đoạn thơ mượn hình ảnh ông tiến sĩ giấy quen thuộc ngoài đời để phê phán những con người có tiếng
nhưng không có chất, đồng thời thể hiện thái độ tự ti của nhà thơ. Không chỉ ở thời Nguyễn Khuyến, hiện
tượng này mới phổ biến mà ở thời đại nào, đây vẫn là chủ đề nóng của xã hội. Nhìn ra những mặt tiêu cực
của thực tế đó để khắc phục, đó mới là xã hội bình đẳng, tiến bộ

Phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy – Mẫu số 2

Bài thơ Tiến sĩ giấy nằm trong phần thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến. Nhưng trào phúng thường phải ngụ trữ tình mới hay. Mọi người đều biết Tam Nguyên Yên Đổ cũng là một ông nghè nổi tiếng tài ba, thừa hiểu tiến sĩ giấy chỉ là thứ đồ chơi cho trẻ con, vậy mà sao còn làm thơ chế giễu?

Mở đầu bài thơ, Nguyễn Khuyến viết:

Cũng cờ, cúng biển, cũng cân đai,

Cũng gọi ông nghè có kém ai!

Tác giả đang tả thực ông tiến sĩ giấy với đủ các thứ sang trọng vua ban cho ngày vinh quy như cờ, biển, cân đai và cũng gọi là ông nghè. Tại sao chỉ trong hai câu mà nhà thơ lại dùng một loạt bốn từ cũng? Đọc lên âm điệu giống như thể hiện thái độ ngạc nhiên trước một sự lạ.

Người đọc ngầm hiểu là trong đời có những ông tiến sĩ những ông nghè thật, xứng đáng với các thứ cờ, biển, cân đai đó, còn ông tiến sĩ này tuy cũng đầy đủ các thứ và cũng được người đời gọi bằng ông nghè nhưng chẳng có chút giá trị nào, vì đó chỉ là một ông nghè giả làm bằng giấy.

Nghĩa đen là thế, còn nghĩa bóng là tuy cũng có đủ thứ quý giá thật đấy nhưng tài cán, đức hạnh chẳng ra gì. Ngụ ý thâm thuý của Nguyễn Khuyến là vừa tả hình dáng ông tiến sĩ giấy, vừa gợi cho người đọc liên tưởng đến những kẻ tuy mang danh tiến sĩ, áo mũ xênh xang nhưng thật sự chẳng có một chút tài đức nào.

Hai câu thực tiếp tục phát triển ý nghĩa ấy :

Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,

Nét son điểm rõ mặt văn khôi.

Với vài mảnh giấy xanh xanh, đỏ đỏ, người làm đồ chơi bồi bồi, dán dán thành hình một ông tiến sĩ giấy, mặt mày phết màu trắng rồi dùng màu son tô điểm cho đẹp. Phần ấy là giả. Còn thân giáp bảng (giáp bảng là bảng thứ nhất sơn vàng nên còn được gọi là bảng vàng), dùng để ghi danh những người đỗ đại khoa, từ tiến sĩ trở lên.

Văn khôi nghĩa là tài giỏi về văn chương. Mặt văn khôi là cách gọi những tiến sĩ có tài xứng với học vị cao quý đó. Làm nên thân giáp bảng và điểm rõ mặt văn khôi đâu phải chĩ cần mấy mảnh giấy và vài nét son mà thành. Phải bao năm đèn sách, có khi suốt cả đời, lại phải là kẻ thông minh, tài cao, chí lớn, gặp thầy gặp bạn mới nên danh chứ đâu có dễ dàng gì.

Tuy vậy, ở đời không ít những vị tiến sĩ bằng xương bằng thịt, học hàm học vị hẳn hoi nhưng cũng chẳng khác gì loại tiến sĩ giấy. Cái thân giáp bảng và mặt văn khôi chẳng qua cũng chỉ là kết quả của những mảnh giấy do chạy chọt bằng thế lực đồng tiền và những nét son vẽ vời bôi bác để che mắt thiên hạ. Dù sao, cái thật và cái giả ở đây cũng vẫn còn lẫn lộn, chưa phân biệt rạch ròi! Cái giả chưa được tác giả đem ra phê phán.

Hai câu luận:

Tấm thân xiêm ảo sao mà nhẹ,

Cái giá khoa danh ấy mới hời.

Không còn lấp lửng, bóng gió nữa, từ miêu tả bên ngoài, nhà thơ đã đi vào đánh giá bên trong, vẫn nói vể ông tiến sĩ giấy như: tấm thân nhẹ, cái giá hời bởi làm bằng giấy và bán giá rẻ mạt nhưng ý tứ đã vượt ra ngoài hình hài người giấy mà chĩa thẳng vào các vị khoác trên mình xiêm áo ông nghè nhưng tài năng, đạo đức nhẹ tênh, suốt đời không làm nổi việc gì xứng đáng với danh vị cao quý ấy.

Bài thơ Tiến sĩ giấy mới đọc qua tưởng chỉ ià một bài thơ vịnh vật đơn thuần nhưng suy ngẫm kĩ, ta sẽ thấy nó hàm ẩn chất trào phúng trữ tình sâu thẳm, thật đáng trân trọng.

Trên đây Toptailieu đã mang tới cho các bạn những kiến thức bổ ích qua bài Trả lời câu hỏi bài Cũng cờ cũng biển cũng cân đai đọc hiểu. Hi vọng những kiến thức trên sẽ giúp các bạn đạt được kết quả cao trong học tập. Mời các bạn đến với câu hỏi tiếp theo.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.